Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao

I. MỞ BÀI:

- Nam Cao là gương mặt truyện ngắn tài hoa của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về đề tài người nông dân và trí thức nghèo trong xã hội thực dân và phong kiến. Ngòi bút Nam Cao sắc sảo, tỉnh táo nhưng vẫn đằm thắm yêu thương. Qua đời giữa lúc tài năng đang ở độ chín, Nam Cao vẫn kịp để lại cho đời một số lượng truyện ngắn đáng kể - có thể làm vinh dự cho nền văn học dân tộc.

- "Chí Phèo" là kiệt tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng tám. Ban đầu tác phẩm có tên là "Cái lò gạch cũ". Năm 1941, nhà xuất bản Đời Mới đổi lại là "Đôi lứa xứng đôi". Khi in trong tập Luống cày năm 1946, Nam Cao đổi lại thành "Chí Phèo".

- Nêu luận đề: Thành công nổi trội của Nam Cao trong truyện ngắn này là ông đã xây dựng được nhiều nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, đặc biệt là Chí Phèo – một cố nông lương thiện bị xã hội phong kiến vùi dập cả nhân hình, nhân tính nhưng vẫn toát lên bản chất lương thiện vốn có.

Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao

II. THÂN BÀI:

1. Khái quát chung:

- Bổ sung thông tin

- Cảm nhận chung về nhân vật Chí Phèo

2. Phân tích nhân vật:

a. Giới thiệu lai lịch, nguồn gốc nhân vật:

- Chí Phèo là một đứa trẻ bất hạnh. Khi mới ra đời đã bị bỏ rơi ở một lò gạch bỏ hoang và vắng người qua lại “một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngoét trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ hoang”. Tuổi thơ của Chí lớn lên trong bàn tay và tấm lòng của người dân làng Vũ Đại.

b. Những nét tiêu biểu về phẩm chất, tính cách của Chí Phèo:

b.1. Chí là một cố nông dân lương thiện:

- Trong hai mươi năm đầu cuộc đời, Chí Phèo vốn là một nông dân rất lương thiện. Anh nông dân cố cùng ấy từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi làm vốn liếng, khá giả thì mua năm ba sào ruộng làm…”. Anh mơ ước một cuộc sống bình dị, khiêm nhường bằng hai bàn tay lao động cần cù của mình. Khi bị cái “bà ba quỷ cái” gọi lên bóp chân, “lại cứ bóp trên nữa, trên nữa”, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.

- Rõ ràng Chí Phèo là người có ý thức nhân phẩm, biết phân biệt giữa tình yêu thương chân chính với thói dâm dục xấu xa. Nhưng bản chất lương thiện đó của Chí Phèo đã bị xã hội ra sức hủy diệt.

b.2. Chí Phèo là một hiện tượng điển hình của người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng không lối thoát:

- Trước hết, Chí Phèo là một hiện tượng có tính quy luật, là sản phẩm của tình trạng áp bức tàn khốc ở nông thôn trước Cách mạng. Đó là hiện tượng người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh.

Mở đầu truyện là hình ảnh rất sống động, đầy hấp dẫn của Chí Phèo say rượu, khật khưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung được vẽ bằng những nét hí họa rất buồn cười ấy, nếu ta để ý, ta còn cảm thấy một cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng của một linh hồn đau khổ. Thật ra, tiếng chửi của Chí Phèo không phải chỉ là lảm nhảm bâng quơ hoàn toàn vô nghĩa. Ban đầu hắn “chửi trời”, “chửi đời”, rồi chuyển sang “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại”…mà vẫn “không ai lên tiếng cả”, hắn vô cùng tức tối, đau khổ: “không biết đứa mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này?”. Hắn cứ chửi và mọi người cứ im lặng… “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”! Hình ảnh mở đầu câu chuyện khá độc đáo, đột ngột đó chẳng những đã giới thiệu một chân dung, một tính cách hấp dẫn, mà còn hé cho thấy tình trạng bi đát của số phận: con người không được xã hội thừa nhận là người.

Vì ghen tuông, bá Kiến đã đẩy anh canh điền hiền lành vào nhà tù; nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào thâm độc giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lao động lương thiện thành quỷ dữ. Hiện tượng bi thảm ấy là phổ biến và có tính quy luật trong xã hội ăn thịt người đương thời.

Từ sau ngày ở tù về, Chí đã thay đổi hoàn toàn về nhân hình: “Trông đặc như thằng săng đá, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gốm chết”,cái mặt “vằn ngang vằn dọc bao nhiêu là sẹo”.

Hành vi của Chí cũng rất khác thường. Chí ngồi uống rượu suốt từ trưa tới đến xế chiều. Say mềm, Chí đến nhà Bá Kiến chửi bới, rạch mặt ăn vạ “ối làng nước ơi! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi!”. Chí sẵn sàng dọa nạt người khác “hắn rút bao diêm đánh cái xòe, châm lên mái lều” của người bán rượu.

Lần thứ hai đến nhà Bá Kiến hắn có đòi hỏi khá lạnh lùng “từ ngày cụ bắt con đi ở tù, con lại đâm ra thích đi ở tù”. Tâm hồn, nhân tính Chí bị tàn phá, hủy diệt. Bị Bá Kiến lợi dụng, Chí đã trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát biết bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”…

- Chi tiết kết thúc tác phẩm (nghe tin Chí Phèo chết, nhớ lại những người sống chung với hắn, Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “đột nhiên chị thấy thấp thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”) là một chi tiết chứa đầy ngụ ý: biết đâu chẳng có một “Chí Phèo con” bước ra từ “cái lò gạch cũ” vào đời để “nối nghiệp bố”!

Rõ ràng, câu chuyện toát lên một điều: hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho người dân được sống hiền lành tử tế, thì sẽ còn những người dân lành bị đẩy vào con đường lưu manh.

Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo, trước hết là ở chỗ đã vạch ra cái quy luật tàn bạo, bi thảm đó trong xã hội nông thôn đen tối đương thời.

- Như vậy, vấn đề được đặt ra từ Chí Phèo chính là vấn đề nông dân. Hiện tượng lưu manh hóa ở nông dân là một dạng cụ thể, tiêu biểu của tình trạng tha hóa phổ biến trong xã hội tàn bạo, hủy diệt linh hồn, vùi dập nhân phẩm con người đương thời.

Đó chính là điều Nam Cao đặc biệt quan tâm và là chủ đề bao trùm toàn bộ sáng tác của ông trước Cách mạng.

b.3. Mối tình Chí Phèo - Thị Nở và sự thức tỉnh linh hồn của Chí Phèo:

- Mối tình Chí Phèo - Thị Nở không phải là một thứ tình yêu của hạng người – ngợm được miêu tả để làm trò cười, mà dưới ngòi bút tuy làm ra vẻ bỡn cợt, tàn nhẫn của tác giả, đó lại đích thực là một tình yêu thương chân chính được Nam Cao rất cảm thông, bênh vực.

- Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất… Chí Phèo, trong một đêm trăng say rượu và ngứa ngáy da thịt. Nhưng rồi điều kì diệu là, Thị Nở không phải chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở gã đàn ông say rượu Chí Phèo, mà lòng yêu thương mộc mạc, chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã khiến bản chất lương thiện của người nông dân lao động trong Chí Phèo thức dậy. Sau bao nhiêu năm phải bán linh hồn cho quỷ dữ để tồn tại u mê như một con thú, linh hồn Chí Phèo đã trở về.

- Có thể nói, đoạn văn viết về sự thức tỉnh linh hồn của Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ, vút lên một tư tưởng nhân đạo lớn lao, bất ngờ. Sáng hôm ấy, Chí Phèo dậy muộn và bỗng cảm thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những âm thanh bình thường quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành tiếng gọi của sự sống, của cuộc đời lao động lương thiện vẳng đến đôi tai lần đầu tiên tỉnh táo của hắn. Nếu như bao lâu nay, Chí Phèo “say vô tận”, “có lẽ chưa bao giờ tỉnh táo để nhớ rằng hắn có trên đời”, thì sáng hôm nay, lần đầu tiên hắn thấy tỉnh táo. Hắn tỉnh táo để nhìn lại cuộc đời mình, từ những ngày xa xưa “rất xa xôi”, đến cái hiện tại đáng buồn và nhất là cái tương lai chắc chắn sẽ “đói rét và ốm đau, và cô độc – cái này còn đáng sợ hơn cái đói rét và ốm đau…”. Lần đầu tiên, Chí Phèo đối mặt với chính mình và nhận ra tình trạng tuyệt vọng của thân phận mình.

- Khi Thị Nở bưng cháo hành đến, Chí Phèo “rất ngạc nhiên” và hết sức xúc động. Hắn ăn bát cháo và nhận ra rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu chân thành, của hạnh phúc giản dị mà to lớn, có thật, lần đầu tiên dành cho hắn! Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt “như ươn ướt”. Lúc này, Chí Phèo đã trở lại đúng bản chất của mình, trở lại là anh canh điền lương thiện, trong trắng năm xưa “Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi”… Hắn bỗng “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn như rưng rưng, hồi hộp mong được nhận trở lại “vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Hắn tin rằng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn: “Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể”.

hình tượng nhân vật Chí Phèo

b.4. Bi kịch tình yêu, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người:

- Chí Phèo còn là một điển hình của tình trạng con người không được làm người, bị xã hội từ chối. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo được Nam Cao đi sâu vào thể hiện chẳng phải ở chỗ không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích… mà chính là ở chỗ hắn bị xã hội vằm nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, bị xóa tên khỏi xã hội con người và phải sống kiếp sống tăm tối của loài thú vật.

Đó là nỗi thống khổ của con người sinh ra là người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối xua đuổi.

- Con đường trở lại làm người lương thiện vừa mở ra trước mắt Chí Phèo đã bị chặn đứng lại. Bà cô Thị Nở dứt khoát không cho cháu bà “đâm đầu đi lấy thằng Chí Phèo”, kẻ “chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ!”. Thật ra, bà ta cũng giống như mọi người mà thôi: mọi người quen coi Chí Phèo là con quỷ từ lâu rồi. Trước đây, để tồn tại, Chí Phèo đã bán linh hồn cho quỷ dữ; cho đến nay, linh hồn Chí Phèo đã trở về thì mọi người không nhận ra.

- Thế là Chí Phèo rơi vào một bi kịch tâm hồn đau đớn: bi kịch của con người không được công nhận làm người. Quằn quại đau khổ và tuyệt vọng. Chí Phèo lại uống rượu, nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, “tỉnh ra, chao ôi, buốn!”. Bởi vì càng uống, Chí Phèo càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức!”. Rồi hắn lại xách dao ra đi, và càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp quyền làm người, cướp cả bộ mặt và linh hồn con người của mình. Hắn đến nhà bá Kiến (chứ không vào nhà Thị Nở) không chỉ vì hắn say, mà chủ yếu vì lòng căm thù vẫn âm ỉ lâu nay trong đáy khối óc u tối của hắn giờ đây đã bùng lên, nên càng say thì càng tỉnh, hắn đến trước bá Kiến, “chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc kết án lão, đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người. Lưỡi dao căm thù của Chí Phèo đã vung lên, kẻ thù bị đền tội. Hành động của Chí Phèo quá bất ngờ đối với chính con cáo già lọc lõi bá Kiến, đối với mọi người làng Vũ Đại; ai cũng coi đó là một vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo. Nhưng thực chất đây là một hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống đã vùng lên, tuy vùng lên một cách manh động, tuyệt vọng – chứ không phải một hành động lưu manh.

- Sau đó, Chí Phèo “chỉ còn một cách” là tự sát; tự sát vì bị từ chối không được cuộc sống con người. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng cuộc sống thú vật như trước nữa. Và Chí Phèo đã chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn, trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống.

Đây là chi tiết phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp theo đúng quy luật: có áp bức, có đấu tranh. Thực chất đây là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân vùng lên bảo vệ quyền sống, không phải là hành động của một kẻ lưu manh hóa.

Hành động Chí phải tự kết liễu bản thân mình cũng mang ý nghĩa sâu sắc. Chí không thể tồn tại khi xung quanh quá nhiều định kiến và những vòng vây của tội ác. Chí mất đi vì không thể quay lại với tội ác khi đã hoàn lương.

3. Nhận xét, đánh giá về ý nghĩa tư tưởng của nhân vật Chí Phèo:

- Hình tượng Chí Phèo là một hiện tượng có tính quy luật trong xã hội cũ: người nông dân lương thiện bị đẩy vào bước đường cùng bị tha hóa và lưu manh hóa.

- Qua hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn tố cáo đanh thép xã hội tàn baọ đã hủy diệt con người cả đời sống vật chất và tâm hồn; đồng thời nhà văn cũng phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân ngay cả khi họ bị vùi dập cả nhân hình, nhân tính.

4. Nhận xé, đánh giá vài nét về nghệ thuật:

Chí Phèo thực sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm là:

- Xây dựng được những nhân vật sống rất cá tính, độc đáo gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Chí Phèo là điển hình nghệ thuật bất hủ, chân dung, tính cách được khắc họa nổi bật, rất sinh động, vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những “con người này” cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.

- Sở trường miêu tả, phân tích tâm lí; có khả năng đi sâu vào nội tâm diễn tả những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.

- Bút pháp trần thuật mới mẻ, linh hoạt; kết câu thoải mái… đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn nhân vật hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, rất phóng khoáng, tưởng như lỏng lẻo mà kì thực chặt chẽ, rất tự nhiên, hấp dẫn.

- Ngôn ngữ cũng đặc biệt tự nhiên, sống động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở của đời sống. Giọng văn biến hóa hấp dẫn. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ tác giả vừa là ngôn ngữ nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen.

III. Kết bài:

- Đánh giá về hình tượng nhân vật Chí Phèo

- Đánh giá chung về Nam Cao

+ tác phẩm "Chí Phèo";

- Nêu được suy nghĩ, liên tưởng của người viết;

Leave a Reply