Nghị luận văn học - Bình ngô đại cáo một số vấn đề chữ nghĩa

Bình Ngô đại cáo (BNĐC) là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã sớm trở thành tác phẩm cổ điển đi vào sách giáo khoa từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông và được giảng dạy ở tất cả các trường cao đẳng, đại học ngành Khoa học xã hội - nhân văn. Với vị trí như vậy, BNĐC cần được nghiên cứu một cách thấu đáo từ văn bản, dịch bản đến chú giải. Mặc dù suốt thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đã đổ khá nhiều công sức vào việc nghiên cứu BNĐC, nhưng tới nay, không phải chẳng còn gì để bàn. Trong hai bài trước (1), chúng tôi đã giải quyết ba vấn đề:

1. Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư là văn bản có độ tin cậy nhất. Tại văn bản này, không có câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân”. Câu “Đại Thiên... nhược vân” là lời mào đầu của viên hoạn quan, nói trước khi truyền chỉ.

Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư

2. Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” là hiệu của Lê Lợi do các tướng sĩ tôn xưng ngài sau chiến thắng Tân Bình - Thuận Hóa năm At Tị 1425. theo Toàn thư, tôn hiệu trên được dùng cho tới tháng 12 năm Đinh Mùi 1427 khi quân ta đại thắng giặc Minh. Sau đấy, Lê Lợi lên ngôi, không dùng tôn hiệu đó nữa, mà thay bằng niên hiệu Thuận Thiên.

3. Bản mà lâu nay các sách như Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập văn học Việt Nam, SGK Văn học 9, Văn học 10... vẫn ghi là Bùi Kỷ dịch, thực ra không phải. Đấy là bản Trần Trọng Kim dịch, in trong Việt Nam sử lược từ năm 1919. Nguyên nhân có sự nhầm lẫn này là, Dương Quảng Hàm hiểu lầm ghi chú của Bùi Kỷ in trong Quốc văn cụ thể năm 1932.

Trên cơ sở hai bài viết trước, ở bài này chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề khác: một số chữ nghĩa trong BNĐC. về chữ nghĩa bài BNĐC quả là còn nhiều việc phải làm. Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi chỉ đề cập tới cách hiểu nhan đề bài cảo và cụm từ máu chảy trôi chày. Nhưng chữ còn lại, xin để dịp khác.

Cách hiểu nhan đề Bình Ngô đại cáo.

BNĐC là tác phẩm văn học chức năng hành chính. Một quy tắc tuy không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ là, ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này dường như bất di bất dịch đối với tất cả tác phẩm văn học chức năng (hành chính và lễ nghi). Ta có thể lấy một số tên tác phẩm văn học chức năng hành chính Việt Nam thế kỉ X - XIV làm ví dụ. Chẳng hạn các tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công uẩn, Dụ chư tì tướng hích văn của Trần Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của Chu Văn An... Những chữ đứng cuối tác phẩm đã chỉ cho người đọc biết thể loại của chúng, như: “chiếu”, “hịch văn” “sớ”... Nhan đề bài BNĐC cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên, hai chữ “đại cáo” sẽ là thể loại tác phẩm của Nguyễn Trãi.

Vậy “đại cáo” là gì?

Các nhà biên soạn SGK hiện hành có hai cách giải thích khác nhau. Soạn giả Văn học 10 cho rằng, BNĐC “dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô”; rồi bổ sung thêm: “bài này viết theo thể cáo”. Cách giải thích trên cho thấy, “đại cáo” là một cụm từ, trong đó “đại” là “rộng rãi”, còn “cáo” là “tuyên cáo” - nó vừa là động từ, vừa là danh từ chỉ thể loại tác phẩm. Soạn giả Văn học 9 thì giải thích khác: “Bỉnh Ngô đại cáo” là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô” . Như vậy, “đại cáo” vẫn là một cụm từ, ở đó, “cáo” là danh từ chỉ thể loại, “đại” phản ánh “quy mô” tác phẩm: lớn.

Thế thì, “đại cáo” trong BNĐC thực chất là cụm từ hay một từ? Nếu là cụm từ, chúng thuộc cụm danh từ hay cụm động từ? Và, “đại” dùng để nói về tính phổ biến “rộng rãi” hay “quy mô” tác phẩm?

Trong Hán ngữ có hai chữ “cáo”: một chữ không bộ ngôn một chữ có bộ ngôn.

Chữ “cáo” không bộ ngôn dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên và thường làm động từ; chữ “cáo” có bộ ngôn dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người viết cũng phân biệt rạch ròi như vậy, trừ những văn bản văn học chức năng hành chính hoặc lễ nghi. Hơn nữa, cả hai chữ “cáo” nói trên đều có thế’ đứng sau chữ “đại” để thành “đại cáo”. Chẳng hạn, thiên Vũ Thành trong Kinh Thư có đoạn: “Việt Nam nhật Canh Tuất, Sài Vọng, đại cáo vũ thành” - “sau ba ngày là ngày Canh Tuất, làm lễ Sài, lễ Vọng, kính cáo (đại cáo) việc võ đã thành công”. Hai chữ “đại cáo” ở câu trên, Thẩm Quỳnh dịch là “kính cáo”, còn Nhượng Tống dịch là “cả tâu”. Trong trường hợp này hai ông đều hiểu “cáo” là động từ, “đại” làm trạng ngữ.

Chữ “cáo” có bộ ngôn thường dùng để chỉ thể loại văn học, khi kết hợp với “đại” sẽ thành “đại cáo”. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo này để chỉ thể loại tác phẩm của mình. Các sách Toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển... đều xác nhận như vậy và ghi: Bình Ngô đại cảo.

Vậy “đại cáo” là thể loại gì và ý nghĩa của nó như thế nào? Hán ngữ đại từ điển giải thích: “đại cáo” là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: “Vũ Vương mất, Tam Giám cùng Hoài Di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà An, viết Đại cáo”. Khổng truyện viết rằng, “Trình bày “đại” đạo để “cáo” với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên”, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cảo. Như vậy ban đầu “đại cáo” do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh “trần “đại” đạo dĩ “cáo” thiên hạ” ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo.

Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

“Đại cáo” còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: “Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh” gọi là Đại cáo. Hồng Vũ là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương - người khai sáng ra nhà Minh, làm hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 - 1398.

Dựa vào hai nghĩa mà Hán ngữ đại từ điển đã nêu ra, chúng ta hãy xem, Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” đặt trong nhan đề tác phẩm của mình nhằm mục đích gì và có ý nghĩa như thế nào?

Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là sự kiện quan trọng, là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thất bại thảm hại của các thế lực hung làncường bạo, mà còn khẳng định sự tất thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩachí nhân làm nền tảng tư tưởng. Vì thế, Nguyễn Trãi muốn nhân dịp này, bày tỏ để nhân loại thấy cái “đại đạo” - đạo lí lớn nhất của Việt Nam là, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, đúng như lời ghi trong Khổng truyện. “trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ”. Đây vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài BNĐC của Nguyễn Trãi, vừa là mục đích mà thiên Đại cảo ở sách Thượng Thư một trong năm bộ “kinh” (Ngũ Kinh) của Trung Hoa cổ đại hằng dương cao. Xa rời mục đích ấy, ta không thể hiểu thấu đáo tư tưởng chủ đạo bài cáo của Nguyên Trãi. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo\ bình xong giặc Ngô, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài Cáo binh Ngô của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

Vì sao Chu Thành Vương phải đánh Vũ Canh? Bởi, y là tên phản chủ, kẻ phản phúc! Sách Kinh Thư kể rằng, sau khi diệt xong Thương Vương Trụ tàn bạo, Chu Vũ Vương - cha của Chu Thành Vương vẫn thương tình, phong cho con trai Trụ Vương là Vũ Canh làm vua nước An. Khi Vũ Vương qua đời, con nối ngôi là Chu Thành Vương còn nhỏ. Trước hoàn cảnh đó, Tam Giám gồm Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc nổi loạn. Vũ Canh bèn liên kết với các tộc Di ỏ' phía đông, hùa theo Tam Giám, đem quân đánh Thành Vương, phản lại nhà Chu. Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành Vương diệt Vũ Canh. Đấy là ý thứ nhất của hai chữ “đại cáo” mà Nguyễn Trãi dùng cho bài bình Ngô ở thời đại ông.

Bình Ngô đại cáo (BNĐC) là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc

Thứ hai, Nguyễn Trãi viết bài Cáo bình Ngô khoảng cuối năm 1427 đầu 1428, sau văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố năm Hồng Vũ 18 (1365) tới hơn 40 năm. Điều đó cho thấy, khi viết bài cáo, Nguyễn Trãi hoàn toàn biết có sự kiện Chu Nguyên Chương ban bố Đại cáo. Minh sử ghi: “Minh Thái Tổ đã định xong “luật lệnh”, các quan Hữu ti tuân thủ thi hành. Nhưng những kẻ phạm pháp ngày càng nhiều, bèn lệnh cho thu thập các sai phạm của quan và dân, chia ra từng điều, làm thành Đại cáo, gồm 10 mục. Tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 18, Đại cáo hoàn thành, gồm 74 điều. Lệnh ban xuống cho các trường học phải đem ra để dạy sĩ tử; còn ở làng quê thì đặt các trường tư, thuê thầy dạy”. Không những vậy, Chu Nguyên Chương còn khuyến khích mọi người đọc, học Đại cáo bằng lệnh: “Những ai đang bị tù đày mà đọc được Đại cảo thì sẽ giảm tội”. Năm sau - 1386, Chu Nguyên Chương lại ban Đại cáo tục biên, gồm 87 điều, Đại cáo tam biên 43 điều. Như vậy là, trong hai năm liền, Minh Thái Tổ đã liên tiếp ba lần ban Đại cáo, tổng cộng 204 điều. Tiếp theo, năm sau - Hồng Vũ thứ 20 (1387), Minh Thái Tổ lại ban Đại cáo vũ tliần. Xem thế đủ biết, “Đại cáo” chính biên, tục biên, tam biên và vũ thần của ông Thái Tổ nhà Minh cực kì quan trọng thật! Ông bắt tất cả mọi người, từ thành thị tới nông thôn, từ quan đến dân, từ văn đến võ, từ sĩ tử tới “phó thường dân”..., ai ai cũng phải đọc, phải học, phải thấm nhuần và quán triệt tinh thần của Đại cáo. Lớp học Đại cáo mở tới tận làng quê, thậm chí, biết đọc Đại cảo là tiêu chuẩn xét giảm án và ân xá cho các phạm nhân. Thế mà, nay Nguyễn Trãi gọi bài “bình Ngô” do mình soạn thảo là “Đại cáo”! Rõ ràng, Nguyễn Trãi muốn người đọc thấy rằng, bài cáo mà mình thay mặt dân tộc viết ra, chính là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố ròng rã suốt ba năm: Hồng Vũ 18, Hồng Vũ 19, Hồng Vũ 20. Đặt pháp luật Đại cáo để thống nhất đất nước, để cai trị nhân dân, để diệt trừ tội ác... Lẽ ra, văn kiện pháp luật Đại cảo của người sáng lập nhà Minh phải tượng trưng cho uy quyền và là công cụ bảo vệ nhà Minh. Nhưng, ở Việt Nam, ngược lại, nó dùng để “bình Ngô”!

Ngô là ai? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng hai chữ “bình Ngô”?

Không nên hiểu “Ngô” theo hai cách thư soạn giả Văn học 10 đã nêu ra. Ngô là nước Ngô, người Ngô, giặc Ngô! Vâng! Nhưng nguồn gốc khái niệm “Ngô” từ đâu ra?

Chu Nguyên Chương gốc người Hào Châu mà, Hào Châu xưa, thuộc đất Ngô. Vì thế, “Ngô” chính là quê cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh: Thái Tổ Chu Nguyên Chương! Hơn nữa, khi sự nghiệp đang trên đà thắng lợi (chiếm xong lộ Tập Khánh), năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc công, ý muốn nhắc tới nguồn gốc của mình: người đất Ngô. Tám năm sau, khi sự nghiệp sắp thành công, ông cải xưng là Ngô Vương, ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình sánh với nước Ngô thời cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan nước Sở hung mạnh, truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt nước Việt, cầm tù Việt Vương Câu Tiễn..

Bởi vậy, Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên ngôi: Ngô Quốc công, Ngô Vương; vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của người khai sáng ra nhà Đại Minh: Chu Nguyên Chương. “Bình Ngô” là “bình” tận gốc gác nòi giống họ Chu - Thái Tổ nhà Minh. Ba đời Vua Minh xâm lược nước ta là Thành Tổ Chu Đệ, Nhân Tông Chu Cao Xí, Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức. Nếu kể từ Thái Tổ Chu Nguyên Chương, Tuyên Đức là đời vua Minh thứ năm. “Bình Ngô” là “bình” tận ông thượng tổ năm đời của “đứa trẻ ranh” Tuyên Đức. Hai chữ “Đại cáo” nói riêng, nhan đề BNĐC nói chung, mang ý nghĩa thâm thúy và sâu sắc như vậy. Nắm được ý nghĩa nhan đề BNĐC là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.

Leave a Reply