Nhận xét về bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt. Trong những năm tháng sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy, nhân dân miền Bắc đã không tiếc sức người, sức của chi viện cho miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật – gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng âm từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say mê bằng chính sự tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung và đậm chất người lính. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó, đã đạt giải nhất báo văn nghệ năm 1969. Tác phẩm được viết năm 1969 để ghi lại ý nghĩa, tình cảm, cảm xúc của các chiến sĩ lái xe hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn ngày đêm đưa người, vũ khí và lương thực chi viện cho miền Nam. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất hiện thực và chất lãng mạn…

Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm: những chiếc xe không kính và người lính lái xe. Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên, mộc mạc.

                   Không có kính không phải vì xe không có kính

                   Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi     

Tác giả lí giải một cách thật đơn giản mà ngộ nghĩnh, tạo ấn tượng mạnh cho người đọc. Từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với hình ảnh “bom giật, bom rung” giúp ta hình dung được sự tàn phá dữ dội của bom đạn trên nẻo đường Trường Sơn lúc bấy giờ. Nhưng tuy thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu song đó lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ.

                   Ung dung buồng lái ta ngồi

                   Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn dày đặc của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản, tự tin, ung dung và lạc quan đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn và đón nhận thiên nhiên. Với nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng, bài thơ đã mở đầu cho ta hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận bằng thái độ tự tin, ung dung, lạc quan của những người lính lái xe. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả một cách chân thực và chính xác đến từng chi tiết:

                   Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

                   Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

                   Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

                   Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính để bảo vệ, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm: “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim”, “sao trời” và “cách chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa vào buồng lái của các chiến sĩ trẻ. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm tay lái trên chiếc xe không kính nên câu từ mới thật sinh động và cụ thể, gây ấn tượng mạnh và gợi cảm giác chân thực đến thế.

Tuy trên đường đi phải vượt qua bao thử thách, bao nỗi căng thẳng nhưng người chiến sĩ không hề run sợ, hoảng hốt, trái lại, các anh vẫn đi rất hiên ngang, tinh thần vẫn vững vàng. Bầu không khí căng thảng với “bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của con người coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ chậm rãi như diễn tả thái độ thản nhiên, đàng hoàng của những người lính lái xe. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên chiến trường thành niềm vui thích mà chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế ấy.

Hai khổ thơ đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, nêu cao tinh thần trách nhiệm với lòng quyết tâm gan góc trở hàng ra tiền tuyến. Tuy những chiếc xe chở hàng còn thiếu thốn và mất mát nhiều thứ nhưng đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường mặc cho gặp nhiều nguy hiểm, nhiều mưa nắng, gió bụi của thời tiết:

                   “Không có kính, ừ thì có bụi

                   Bụi phun tóc trắng như người già”

                   “Không có kính ừ thì ướt áo

                   Mưa phun, mưa xối như ngoài trời”

Trên con đường chi viện cho miền Nam, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ nhưng đứng trước những thử thách mới, các anh cũng không hề nao núng mà càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. Thời tiết “mưa tuôn”, “mưa xối” khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ, tất cả chỉ là chuyện nhỏ, chẳng đáng bận tâm, chúng như đem lại niềm vui đến cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một sự thách thức, một sự chấp nhận đầy chủ động với thái độ cứng cỏi, dường như gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ.

Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:

                   “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

                   Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

                   “Chưa cần thay lái trăm cây số nữa

                   Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

Cấu trúc các câu thơ vẫn rất cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” gợi một cảm giác nhẹ nhàng, ung dung, lạc quan và thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi thanh niên hòa trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” với ý thơ rộn rã, sôi động như sự hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Giọng điệu thơ tự nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch như họ đang cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn đã giúp những người lính đưa hiện thực đời sống vào thơ ca một hiện thực bộn bề, thô ráp, trần trụi mà không hề trau chuốt, gọt dũa. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy cũng làm nổi bật lên tính cách ngang tàn của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời. Đó cũng chính là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Nụ cười hiện trên môi của các anh là một nụ cười sảng khoái, vô tư, hồn nhiên và ngạo nghễ thể hiện các anh là những người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Sau mỗi trận mưa bom bão đạn ấy thì những chiếc xe ngày càng bị tàn phá nặng nề hơn, họ gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội” – tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên, tinh nghịch. Đó chính là nét đẹp về tâm hồn và tình cảm của các anh, là tình catm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời.

                   “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

                   Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

Cái bắt tay độc đáo là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía, cái bắt tay thay cho lời nói, lời động viên, lời chia sẻ của những người lính với nhau. Chỉ có những người lính, những chiếc xe bị tàn phá khốc liệt thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy – một chi tiết nhỏ nhưng mang dấu ấn to lớn của một thời đại hào hùng.

                   “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

                   Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Tình cảm gia đình của những người lính thật bình dị mà ấm áp thân thương tạo nên sức mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” để đi tới thắng lợi cuối cùng. Trong tâm hồn các anh, trời xanh như chứa chan hy vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quan của “tiểu đội xe không kính” mà không một sức mạnh bom đạn nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống của các anh không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.

Nếu như ở các câu thơ đầu tiên của bài, ta chỉ bắt gặp hình ảnh những chiếc xe không có kính thôi thì đến khổ thơ cuối này, ta thấy được hình ảnh những chiếc xe ngày càng bị hư hỏng, thiếu thốn và mất mát nhiều hơn.

                   “Không có kính, rồi xe không có đèn

                   Không có mui xe, thùng xe có xước”

Tuy chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kỹ thuật, dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: “không kính”, “không đèn”, “không mui”, chỉ có một thứ duy nhất là “có xước” nhưng cũng vẫn là một tổn thất, hư hại. Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên thử thách khốc liệt của chiến tranh. Vượt dãy Trường Sơn, đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù, mang trên mình đầy thương tích nhưng chiếc xe vẫn như một chiến sĩ kiên cường mà bất khuất.

                   “Xe vẫn chạy vì miền Nam phí trước

                   Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến lên phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một mục đích thiêng liêng “vì miền Nam phía trước”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập thống nhất đất nước vẫn đang vẫy gọi, bởi vì trong những chiếc xe đó chứa đựng “một trái tim” dũng cảm và kiên cường. Hình ảnh “trái tim” là hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp và phẩm chất của những người chiến sĩ lái xe. Trái tim nông cháy chứa đựng một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm và niềm tin tuyệt đối. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất đất nước. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, phẩm chất anh hùng, khí thế của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chứa chan tình yêu thương này. Nhà văn đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật những cái “có” và làm nổi bật một chân lý của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, hủy hoại giá trị vật chất nhưng không thể bẻ gãy được những giá trị tinh thần cao đẹp. Chính vì vậy mà tuy Việt Nam là một nước nhỏ nhưng lại chiến thắng được cường quốc lớn như Đế quốc Mĩ.

Bằng việc sử dụng điệp ngữ “không có” và các từ ngữ tương ứng đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên, ngang tàn của những người lính trẻ nhưng ẩn sâu trong từng câu nói là một tinh thần trách nhiệm cao và có ý nghĩa như một lời thề thiêng liêng, son sắt. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của kẻ thù có thể lay chuyển được.

Đến với bài thơ, ta thú vị nhận ra cái chất hiện thwucj và chất lãng mạn được hòa quyện với nhau một cách tinh tế mà sâu sắc. Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo, bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong bài thơ đã góp phần tạp nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả. Cái “cửa kính vỡ rồi”, cái “xe không kính” đậm chất hiện thực nhưng vẫn lao lên phía trước, lao ra tiền tuyến để tiếp tế súng đạn, lương thực vì ngày toàn thắng của đất nước. Hình ảnh tiểu đội xe không kính trở thành biểu tượng lãng mạn tuyệt vời cho những người lính lái xe trên đường mòn Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn hướng tới miền Nam thân yêu.

Leave a Reply