Những khám phá về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

CÁC Ý CHÍNH

a. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương hay vẻ đẹp của cô gái Huế

Quan sát dòng sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường phối hợp cùng một lúc nhiều điểm nhìn khác nhau. Nhưng dù từ điểm nào thì trong con mắt của ông, dòng sông Hương cũng hiện lên như một cô gái đẹp - không phải cái đẹp chung chung, mà vẻ dẹp của cô gái Huế, với cái duyên dáng riêng và mang tâm hồn riêng của Huế. Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường, thật khó phân biệt đâu là thiên nhiên, đâu là con người, đâu là dòng Hương, đâu là cô gái Huế. Trong cảm quan thẩm mĩ của ông, qua bài tuỳ bút, thấy dường như có một nhân vật mang tên Dòng sông Hương - cô gái Huế.

Nói đến dòng sông độc đáo này, người ta thường chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng của nó. Nhưng tìm hiểu từ ngọn nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy được một phương diện khác của nó: phương diện “phóng khoáng man dại” với “những ghềnh thác cuộn xoáy như cơn lốc” đổ xuống những vực sâu trong lòng Trường Sơn. Tác giả gọi đó là một phần “bản chất”, là “phần hồn sâu thẳm” của dòng sông. Phải chăng, đó cũng là một phát hiện sâu sắc và bất ngờ về cô gái Huế: trong cái dịu dàng thơ mộng, vẫn ẩn chứa “một cô gái Di-gan”, mà cũng như dòng sông khi ra khỏi cửa rừng, “đã đóng kín lại [...] và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.

Những khám phá về vẻ đẹp của dòng sông Hương trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông

Tình tứ mà dịu dàng, kín đáo, đó là cái duyên dáng riêng của Dòng sông Hương - cô gái Huế. Tác giả dã diễn tả vẻ đẹp ấy bằng những nét võ cũng thật là tình tứ, dịu dàng với “những đường cong thật mềm”, những “hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “mềm như tấm lụa”, “uốn một cánh cung rất nhẹ làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”; qua vùng ngoại ô Vĩ Dạ, “xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái”, nó bỗng đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây như để gặp lại thành phố thân yêu lần cuối cùng trước khi ra biển, thể hiện “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

Diễn tả dòng sông, ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng dường như cũng uốn lượn theo những đường cong mềm mại của nó bằng những nét vẽ như ấp ôm, như ve vuốt...

Cô gái Huế đẹp nhất và cũng duyên dáng, kín đáo nhất là trong sắc áo “điều lục” - trang phục truyền thống của cô dâu Huế. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, màu áo ấy cũng bát nguồn từ vẻ đẹp đặc trưng của sông Hương: một “loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu áo đỏ bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện thấp thoáng theo bóng người [...]. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên”,...

b. Vẻ dẹp của sông Hương, nhìn từ góc độ văn hoá

Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã đến thăm Huế, hẳn đều được nghe nhạc Huế. Nhưng cũng đã mấy ai hiểu rằng, phải nghe nhạc Huế trên sông Hương vào lúc đêm khuya mới cảm nhận được hết linh hồn của nó. Bởi vì, như tác giả khẳng định, “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước cùa dòng sông này”. Có lẽ vào những đêm khuya, trong không khí tĩnh lặng có thể nghe được cả tiếng động rất nhẹ của nhịp chèo và những giọt nước rơi, những nghệ nhân xưa, nhìn mặt nước sông Hương in bóng trăng thanh, đã cảm hứng soạn ra những bản nhạc cổ điển và cả những điệu hò mái nhì, mái đẩy để gửi lòng mình với quê hương xứ sở...

Nhưng một phát hiện bất ngờ hơn nữa của tác giả là dòng Hương Giang và nhạc Huế còn có ảnh hưởng tới Truyện Kiều của Nguyễn Du nữa. Tác giả tưởng tượng hơn hai trăm năm về trước, Nguyễn Du từng lênh đênh trên dòng Hương với một “phiến trăng sầu”. Nhà thơ nghe nhạc Huế và viết nên những vần thơ tuyệt đẹp của mình. Tất nhiên đây chỉ là một suy luận, nhưng không phải hoàn toàn không có căn cứ. Tác giả dã dẫn ra câu chuyện của một nghệ nhân già “chơi đàn hết nửa thế kỉ” đã nhận ra trong những vần thơ Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời” có âm hưởng của giai diệu bài Tứ đại cảnh. Một nhận xét cảm tính khá mơ hồ như thế của một nghệ nhân tài tử, chưa thể xem là một căn cứ chắc chắn. Dù sao, đây cũng là một bằng chứng về sự gặp gỡ giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng Hương Giang.

Sông Hương còn là nơi khơi nguồn cho cả một dòng thi ca phong phú. Tác giả không có ý định liệt kê trong bài tuỳ bút của mình tất cả sản phẩm bề bộn của dòng thi ca này (mà đâu phải chỉ có thi ca). Ông chỉ muốn chứng minh rằng, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn điệu mà biến hoá đa dạng. Vì thế, mỗi phong cách thơ lại có thể khám phá được những sắc thái khác nhau của nó: Ở thơ Tản Dà, nó là “dòng sông trắng, lá cây xanh”; ở thơ Cao Bá Quát nó lại là thanh “kiếm dựng trời xanh” đầy khí phách ngang tàng;thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”; Ở thơ Tố Hữu, nó lại là sức mạnh phục sinh của những kiếp giang hồ “Trên dòng Hương Giang”.

Và sông Hương cũng là nơi đẻ ra bài tuỳ bút rất tiêu biểu của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ai đã đặt tên cho đòng sông?

c. Sông Hương - thiên “sử thì viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”

Sông Hương - thiên “sử thì viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”

Gọi sông Hương là một áng trữ tình thì ai nấy đều dễ chấp nhận. Nhưng gọi nó là một thiên sử thi, một bản anh hùng ca thì thật đáng ngạc nhiên. Đây lại là một phát hiện bất ngờ nữa của tác giả Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Nhân đọc Dư địa chí của Nguyễn Trãi và những tài liệu khảo cổ học về thành cổ Hoá Châu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khám phá ra rằng, Hương Giang vốn tên là Linh Giang, một dòng sông nơi biên thuỳ, từng chứng kiến những cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân Đại Việt từ thuở Bà Trưng, Bà Triệu để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc qua những thế kỉ cổ trung đại.

Vậy là sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiều sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng đáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chặn đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.

Nhưng tác giả gọi sông Hương là thiên “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẵn sàng hiến mình để làm nên những chiến công hển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vẫn rất đỗi trữ tình.

Không phải ngẫu nhiên mà sau khi thuật kể những chiến công của sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại quay về với màu áo điều lục của những cô dâu Huế. Đúng là màu đỏ chói lọi lại giấu mình dưới một tấm voan xanh chàm để thành màu tím Huế ẩn hiện thấp thoáng như sương khói huyền ảo trên sông Hương...

Đúng là trở đi trở lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn nhìn sông Hương chủ yếu như một cô gái Huế kín đáo, dịu dàng.

Leave a Reply