Nội dung chính, nghệ thuật, chủ đề của chương Đất Nước (Trích trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

I. VỀ TÁC GIẢ

Nguyễn Khoa Điềm người làng Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức cách mạng. Năm 1964, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm nhập ngũ, vào Nam chiến đấu. Nguyễn Khoa Điềm hoạt động ở chiến khu Trị - Thiên rồi vào nội thành Huế. Ông từng bị địch bắt giam, đến năm Mậu Thân 1968 mới được giải thoát.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu cảm xúc, giàu chất suy tư. Sau năm 1975, vừa sáng tác, ông vừa tham gia giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước và trong lĩnh vực văn hoá, vân nghệ. Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.

Các tác phẩm chính: Đất ngoại ô (tập thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),...

Nguyễn Khoa Điềm

II. VỀ TÁC PHẨM

1. Xuất xứ

Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Đó là một cuộc lật đổ về ý thức. Thanh niên các đô thị vùng tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, về đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đất Nước được trích ở phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.

2. Nội dụng chính

a. Đoạn trích Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lí giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả là khá chặt chẽ nhưng cũng lại rất phóng túng. Bài thơ mở đầu bằng những lời độc thoại say sưa định nghĩa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua bề rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hoá - phong tục, lối sống, tính cách của người Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy nhiệt hứng, đồng thời lại cũng cổ những vang động sâu xa.

b. Trong phần đầu của bài thơ, bằng hình thức tự tình - chính luận, nhà thơ đã định nghĩa, cảm nhận về đất nước bằng cổ tích, bằng ca dao. Lời thơ thoát khỏi những khái niệm khô khan để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại,... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ''ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể gần gũi biết bao!

Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng cách chọn chất liệu từ văn hoá dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bởi văn hoá dân gian là của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo sự cuốn hút thật hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.

Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nó dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và cũng bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân trong mỗi chúng ta.

Mặt đường khát vọng

c. Phần sau của đoạn thơ, từ "Những người vợ nhớ chồng..." đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trong phần này, tư tưởng ấy đã quy tụ một cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu và mới của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hoá của đất nước:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái.

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trông Mái,... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hoá mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hoá không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyên đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sông mãi. Người ta yêu thích nó, say mê nó là ở cái phần tâm hồn kia. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử bôn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thuỷ chung tình nghĩa. Là những con người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hoá của dân tộc qua bao bão táp phong, ba của lịch sử.

Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy nhiệt hứng và vang rộng sâu xa.

Đất nước

3. Nghệ thuật

Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng của thể thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc tiếp thu và sử dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ thể hiện sự hoà hợp thật nhuần nhuyễn giữa hình thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, từ huyền thoại,...

4. Chủ đề

Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người thi sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, ấy là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

Leave a Reply