Phân tích đoạn thơ sau đây trích trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu: “Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương/ Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Bài thơ Việt Bắc được sáng tác nhân một sự kiện chính trị - xã hội. Đó là việc Trung ương Đảng và Chính phủ chuyển về thủ đô khi thủ đô được giải phóng. Suốt mười lăm năm gắn bó với Việt Bắc, trong giờ phút chia tay bịn rịn, Tố Hữu rất xúc động và đã viết nên bài thơ. Bài thơ có dáng dấp là một bản tổng kết lịch sử. Tựa đề bài thơ được lấy làm tựa đề cho cả tập thơ kháng chiến của Tố Hữu và được tôn vinh là một trong một trăm bài thơ hay nhất thế kỉ XX của Việt Nam.

Đoạn thơ mang âm hưởng chung của bài thơ với thể lục bát ngọt ngào, kết câu đối đáp, các thi liệu và cách nói quen thuộc của ca dao. Đoạn thơ là nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi, và là lời của người ra đi.

Nhớ Việt Bắc mà giống như nhớ người yêu

Câu thơ đầu của đoạn thơ chứa đựng một sự so sánh đáng chú ý: “Nhớ gì như nhớ người yêu". Câu thơ không phải đang nói tới nỗi nhớ người yêu mà là nỗi nhớ Việt Bắc. Nhớ Việt Bắc mà giống như nhớ người yêu. Tố Hữu là người ít viết về tình yêu lứa đôi, nhưng không có nghĩa là không có những cảm xúc đó. Câu thơ thật đúng với tâm trạng người đang yêu. Nhớ Việt Bắc mà đến độ ngất ngây, nồng nàn, say mê mà dịu ngọt. Thơ Tố Hữu chứa đựng những tình cảm lớn: hướng về đất nước, về nhân dân, nhưng khi thể hiện những tình cảm này ông đã nói bằng ngôn ngữ của đôi tình nhân say đắm. Nỗi nhớ ấy cứ ám ảnh trong tâm trí suốt cả thời gian, không gian khiến người ra đi thốt lên nửa như cảm thán, nửa như so sánh, nửa như nghi vấn khiến câu thơ có sức gợi cảm đặc biệt. Trong những câu tiếp theo, bức tranh Việt Bắc với những cảnh sắc thân thuộc đã được thể hiện rất sinh động:

“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm trưa bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa, bờ tre

Ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”.

đây nhà thơ không tả chi tiết mà chỉ gợi nhắc. Vì đối với những người trong cuộc thì chừng ấy thôi cũng khiến họ bồi hồi. Hình ảnh “trăng lên”, “nắng chiều” vừa nói nỗi nhớ xuyên suốt cả thời gian vừa như gợi lại kí ức một cuộc hẹn hò nào đó và những khoảnh khắc cuối ngày đong đầy niềm xao xuyến...

Hình ảnh bếp lửa gợi sự sum họp ấm cúng của người thương. Hình ảnh “bản khói cùng sương” đã thức dậy trong ta bao tình cảm với những bản làng xa xôi của Việt Bắc quanh năm mây mù bao phủ. Cụm từ “nhớ từng” được lặp lại nhằm khẳng định người đi không quên bất cứ nơi nào, bất cứ sự việc gì, địa danh nào, từ “ngòi Thìa, sông Đáy, suối Lê...” Tất cả đều có chỗ đứng trong tâm hồn của người ra đi. Suối Lê có lúc vơi lúc đầy nhưng tình cảm với Việt Bắc lúc nào cũng tràn đầy.

Dù xa cách nhưng người ra đi không thể quên những ngày gian khổ sống giữa lòng Việt Bắc:

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi,

Thương nhau chia củ sắn lùi,

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

Tình cảm với Việt Bắc lúc nào cũng tràn đầy

Những sự chia sẻ trong lúc khó khăn bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu đậm nhất. Tình người sáng lên trong những hoàn cảnh ngặt nghèo.

Việt Bắc đã chia sẻ từ nửa bát cơm, củ sắn rất cụ thể của đời sống vật chất đến ngọt bùi, cay đắng, không tả xiết trong đời sống tinh thần. “Mình đây, ta đó” lúc nào cũng quấn quýt bên nhau, có “mình” ắt sẽ có “ta”. Các chi tiết vừa tả thực lại vừa có ý nghĩa tượng trưng. Tất cả đều hướng người đọc nhận thức dược cái giá trị của “đồng cam, cộng khổ” mà Việt Bắc và người kháng chiến cũng nêu cao. Chi tiết “Chăn sui đắp cùng” gợi lên không khí kháng chiến. Chi tiết này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Tấm “chăn sui” tuy chưa đủ chống lại cái lạnh thấu xương của mùa đông Việt Bắc, nhưng thực tế nó đã sưởi ấm được lòng người, đã gắn kết được tình người, cũng như nửa bát cơm, nửa củ sắn chưa làm no lòng nhưng lại ấm lòng bằng vị ngon tinh thần ngọt bùi của nó.

Hai câu tiếp là nỗi nhớ người Việt Bắc:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô"

Với người mẹ, tấm lưng trần cháy nắng đã nói lên tất cả. Chi tiết này vừa thực lại gợi rất chính xác cuộc sống còn khó khăn của người Việt Bắc trong cuộc mưu sinh. Thế mà họ đã “chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa’’ cho cách mạng. Thật đáng quý biết bao những tấm lòng cửa bà mẹ Việt Bắc, người dân Việt Bắc.

Những câu thơ còn lại tiếp tục nói về những gian khổ nhưng nghiêng về tinh thần lạc quan của người kháng chiến.

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo...”

Các câu thơ còn lại gợi lên khá chi tiết, khá điển hình về đời sống ở chiến khu: có cơ quan, có tiếng học bài, tiếng ca, có ánh đuốc bập bùng giữa đồng khuya, có không khí liên hoan vui tươi phấn khởi. Quả là tư tưởng kháng chiến đã chi phối cách tổ chức cuộc sống một cách khoa học, quy củ, nề nếp, cũng như trạng thái tinh thần phấn chấn của người kháng chiến. Đằng sau đó, điều đáng nói hơn là tâm trạng nôn nao khó tả của con người. Điệp ngữ “nhớ sao” chỉ mức độ cao của nỗi nhớ lại vừa nói lên người đi thực sự sống trong nỗi nhớ, chứ không kể lại một cách khách quan, đơn thuần.

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.

Hai âm thanh rất Việt Bắc vọng mãi trong tâm hồn người ra đi. Đó là tiếng mõ trâu về bản lúc chiều tà, tiếng chày thậm thình bên suối trong đêm khuya, thật khó quên. Chúng vừa thân thuộc lại vừa hoang dã, vừa gần gũi bên tai lại như vừa vọng lên từ một cõi xa xôi nào. Câu thơ hay thêm bởi được sự cộng hưởng của âm điệu. Đọc lên ta như nghe một dạ khúc thiết tha.

Bức tranh Việt Bắc được tái hiện cụ thể, sống động và một thời gian lao cũng được khắc họa khá chi tiết qua nỗi nhớ. Những vấn đề lớn lao của đất nước đã trở thành những vấn đề của trái tim, làm cho đoạn thơ ngọt ngào dễ tiếp nhận đối với bạn đọc.

Leave a Reply