Phân tích tập thể anh hùng trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Rừng xà nu là tác phẩm để lại một dấu ấn sâu đậm trong kí ức mỗi chúng ta. Nguyễn Trung Thành được coi như là nhà văn của Tây Nguyên theo đúng nghĩa của nó. Cả cuộc đời ông sống, chiến đấu và gắn bó với núi rừng , với đồng bào Tây Nguyên dù ông không hề được sinh ra trên mảnh đất này. Ông cũng chính là người phản ánh một cách sinh động đời sống, tính cách và tâm hồn đồng bào Tây Nguyên trong tác phẩm của mình , và phần Tây Nguyên đó được đánh giá là hay nhất trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Hình tượng cây xà nu

Nguyễn Trung Thành có sở trường viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuộc với ông từ ngày viết Đất nướcđứng lên. Nay lai được trở về với vùng đất ấy, tác giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt là rừng xà nu chạy tít tắp tới tận chân trời. Nhà văn đã từng thốt lên : Tôi yêu say mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó. Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tượng mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó.

Xà nu, một loại cây họ thông mọc thành rừng , man dại mà trong sạch, hùng vĩ mà cao thượng. Thân cây cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn , hàng triệu cây nối tiếp nhau vô tận tạo nên màu xanh mỡ màng cho núi rừng Tây Nguyên, thành một nét đặc trưng riêng biệt của Tây Nguyên.

Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành

Cây xà nu có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Tây Nguyên mà cụ thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay: Ngọn lửa xà nu trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng đêm, đống lửa xà nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về ... rồi xà nu tham gia vào những sự kiện trọng đại của làng Xô Man: Dưới ánh lửa xà nu người dân Xô Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị kháng chiến...

Truyện có đến hơn hai mươi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau. Như vậy không có cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu. Tên tác phẩm đã cô đúc chủ đề tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng vĩ của núi rừng Tây Nguyên.

Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tượng cây xà nu với hình thượng dân làng Xô Man yêu nước. Xà nu cũng như dân làng chịu nhiều đau thương. Những ngày cách mạng Việt Nam còn chìm trong bão tố chiến tranh, dân làng Xô Man cũng như rừng xà nu cùng chung số phận: Làng ở trong tầm đại bác của giặc, chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày... Sự sống nằm trong sự huỷ diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến tranh.

Do vậy cả rừng xà nu không cây nào không bị thương. Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đôi, gục ngã nhưng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thương nhẹ , chóng lành. Cũng như xà nu, những con người Xô Man, thân thể và trái tim họ đầy thương tích. Cũng có những đời người như những cây xà nu bị chặt đứt tuổi xuân. Mai ngã xuống khi hạnh phúc lứa đôi và tình yêu tuỏi trẻ đang tràn trề...

Đó là chuỗi ngày đau thương của người dân làng Xô Man, những quần chúng bị giết vì nuôi cán bộ. Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị chặt đầu... lưng Tnú ngang dọc những vết dao, mười đầu ngón tay anh bị kẻ thù thiêu cháy. Những người con ưu tú đã ngã xuống : anh Quyết, Mai, cả đứa con thân yêu của Tnú... nhưng cũng như cây xà nu niềm tin bất diệt vào cuộc sống đã giúp họ vươn lên, vượt qua đau thương để chờ đón ngày ngày hạnh phúc.

Nguyễn Trung Thành lấy hình tượng cây xà nu đặt trong mối tương quan mật thiết với con người không phải chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt. Rừng xà nu còn là hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt. Bản năng tự bảo tồn và sự thèm khát vươn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng được sự huỷ diệt của đạn bom. Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt.

Cũng giống như lịch sử của dân làng Xô Man , đó là lịch sử của sự sống không bao giờ bị dập tắt , một tư thế sống không hề biết cúi đầu. Thanh niên không thể nuôi cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lượt Mai, Tnú , và khi Mai không còn nữa đã có Dít thay thế... đến cả Tnú, khi mười đầu ngón tay không còn nữa, anh vẫn ra đi làm chiến sĩ giải phóng quân bởi anh nghĩ còn cử động ngón tay được nghĩa là còn khả năng cầm súng chiến đấu. ý chí của Tnú hay nói cách khác, khát vọng sống và bảo vệ cuộc sống trong anh nói riêng và của dân làng Xô Man nói chung là mạch nguồn để chiến thắng cái chết, chiến thắng bạo tàn.

Bên cạnh đó cây xà nu còn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống như dân làng Xô Man yêu thích tự do. Họ biết yêu thương gắn bó với quê hương, gắn bó với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ : Đảng còn, Bác Hồ còn là đất nước này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhưng chân thật. Các thế hệ dân làng Xô Man, từ những người cao tuổi như cụ Mết vẫn khoẻ mạnh, quắc thước, rắn chắc như một cây xà nu lớn, hay những lớp thanh niên trẻ hơn , những lớp mang non đều nỗ lực vươn lên, vượt qua sự huỷ diệt như những cây xà nu lao vút lên bầu trời nhọn hoắt như những mũi lê.

Lấy hình tượng cây xà nu và sức sống mãnh liệt của nó, Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính cách con người Tây Nguyên: anh dũng, kiên cường. Cây xà nu trở thành hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tượng cho sức sống mới và từ đó những con người hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hướng tới cuộc sống.

2. Nhân vật Tnú

Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang. Sở dĩ trong “Rừng xà nu”, ông phải đặt một tên khác vì nếu lấy tên Đề nó “người Kinh quá”, gọi bằng Tnú “không khí hơn nhiều”, Tây Nguyên hơn nhiều.

Tnú là hiện thân của sự khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Anh là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh . “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó . Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.

Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống , tin vào chính mình và không hề biết sợ hãi , không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện.

Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”.

Sức mạnh của Tnú còn được hun đúc bởi một tình yêu lớn của một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn. Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì sao vậy?

Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.

Tnú không cứu được mẹ con Mai … Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không Tnú, mày không cứu được vợ mày …Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không”. Những lời ấy của cụ Mết như một minh chứng cho qui luật : không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Chỉ còn cách cầm vũ khí , lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. “Tiếng chuông nổi lên … và lửa cháy khắp rừng …Nghe rõ chưa các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi , bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo …”.

Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam : phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.

Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man.

Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói , một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.

Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh. Cùng với hình tượng cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù, đồng thời nhấn mạnh khát vọng của con người , hướng tới tới tương lai và ánh sáng. Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng liêng của lịch sử : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo.

Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy , bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây …

Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”.

Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm.

Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí tưởng. Qua nhân vật này Nguyễn Trng Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng.

Leave a Reply