Văn Mẫu Lớp 10
Bạch Cư Dị đã miêu tả nốt lặng của tiếng đàn rất hay qua bốn câu thơ trong Tì bà hành
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
Tất cả cái hay, cái đẹp của nốt lặng đều chứa trong bốn câu thơ này.
Bài Khuê oán (nỗi oán của người phòng khuê) của Vương Xương Linh, tôi đã được từ thời cấp III (cũ). Một người bạn trong lớp đã đọc cho cả lớp nghe lời dịch thơ như thế này, không biết của ai:
Thiếu phụ phòng khuê chửa biết sầu
...
Hối để chồng đi kiếm tước hầu
Bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu nổi tiếng xưa nay, nổi tiếng đến mức Lý Bạch khi tới đây đã phải thốt lên: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc. Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Trước mắt có phong cảnh đẹp mà nói không nên lời, bởi Thôi Hiệu đã đề thơ trên đó).
Thu hứng 1 của Đỗ Phủ là một bài thơ thật tiêu biểu, tuyệt hay nhưng cũng khó giảng và nói chung thơ Đường hay đều như thế: thâm thúy, hàm súc, kín đáo, tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh, trộn lẫn, lắm lúc khó lòng phân biệt.
Nói đến thơ Đường, người ta thường hay nhắc tới bút pháp “vẽ mây nẩy trăng”, “vẽ rồng điểm mắt”, “chấm phá”... trong miêu tả, rồi từ đó mà chỉ ra cái “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa), xem đó là một nét quyến rũ độc đáo của mảng thơ này.
Tảo phát Bạch Đế thành (Lý Bạch) và Thu hứng (Đỗ Phủ) là hai thi phẩm từ lâu đã trở thành quen thuộc với những người yêu thơ. Cả hai tác phẩm, một của “tiên thơ” và một của “thánh thơ” đều xứng đáng được xem là tinh hoa của thơ Đường
Về bài thơ tứ tuyệt Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) của Lý Bạch, Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (NXB Giáo dục - 1991) cho rằng: “Bài thơ chủ yếu nói lên tình bạn đằm thắm của Lý Bạch”
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
;;;
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Thơ tống tiễn, tặng đáp chiếm một lượng đáng kể trong gia sản thơ của thi nhân xưa vì cổ nhân cho rằng thơ là phương tiện giao tiếp thanh nhã, dùng nó để kết nối lòng mình với tri âm tri kỉ thì không có gì hợp hơn, quý hơn.
Trong Ramayana và Ôđixè, hai bộ sử thi nổi tiếng trong nền văn học Ấn Độ và Hi Lạp, toàn bộ cuộc sống ngoài đời lúc bấy giờ đã được đưa vào tạo nên một bức tranh xã hội thực sự với những đường nét rất phong phú.
Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du, được xếp trong Thanh Hiên thi tập.
Bằng những chứng nghiệm từ cuộc đời mình, trong sáng tác của ông, ta thấy một nhân vật Thúy Kiều, một người gảy đàn đất Long Thành
Trao Duyên là một đoạn thơ có ý nghĩa đặc biệt trong Truyện Kiều. Nó là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ của Tliúy Kiều, thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ của tác phẩm, đồng thời bộc lộ biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du.
Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra trận - là một trong những kiệt tác của nền văn học dân tộc. Ra đời trong thời kì chế độ phong kiến suy tàn, chiến tranh xảy ra liên miên, làng xóm tiêu điều, ruộng vườn xơ xác
Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Tác phẩm đi vào một đề tài phổ biến trong văn học cổ Trung Hoa và sử dụng khá nhiều điển cố trong văn học Trung Quốc.
Chiến tranh ập đến, bất ngờ, xộc vào từng nhà và lôi con người từ cuộc sống thanh bình ném vào trận mạc tàn khốc.
Trước hết, để khắc họa hình tượng trữ tình là tâm trạng người chinh phụ, ở hai khổ đầu tác giả đã miêu tả một không gian và thời gian mang tính chất tượng trưng với những hình ảnh ước lệ được dùng nhiều trong văn chương cổ: gió đông (gió từ phương đông thổi tới, tức ngọn gió mùa xuân)
Cái tâm trạng thất vọng của nàng cũng làm cho cảnh vật cũng muốn buồn theo:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Một bức tranh thiên nhiên gợi lên cái tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện hàng loạt những hoạt cảnh sinh độn