Văn nghị luận: Hai chữ nước nhà

I. Giới thiệu một vài nét về Trần Tuấn Khải và bài thơ "Hai chữ nước nhà''

1. Trần Tuấn Khải quê ở Nam Định, nhà thơ cùng thời với Tản Đà thi sĩ, nổi tiếng với những bài thơ thất ngôn, thơ lục bát, thơ song thất, với những bài hát theo các làn điệu dân ca. Thơ Trần Tuấn Khải chứa chan tinh thần dân tộc và cảm hứng yêu nước. Bài thơ "Hai chữ nước nhà" được viết bằng thể thơ song thất lục bát, là bài thơ mở đầu tập "Bút quan hoài", quyển thứ nhất, in năm 1926.

2. Trích đoạn bài thơ có thể chia làm 3 phần:

- Tám câu thơ đầu: Đất nước đau thương ảm đạm trong vòng nô lệ; tâm trạng đau đớn của cha già cất tiếng khuyên con.

- Hai mươi câu thơ tiếp theo: Một đất nước, một dân tộc rất đáng tự hào; giặc Minh tham tàn xâm lăng đất nước ta gây nên bao tội ác tày trời "xương rừng máu sông", "thành tung, quách vỡ",...; cha già đau đớn lo lắng cho sự tồn vong của đất nước.

- Tám câu cuối: Cha già đau đớn vì "xa quê", khuyên con và tin tưởng con hãy phục thù cho nước, giành lại nền độc lập tự do và rửa hận cho cha.

3. Nhan đề bài thơ là "Hai chữ nước nhà"; lời chú thích của tác giả mang một ẩn ý sâu xa, vừa đổ tránh sự bắt bẻ, kiểm duyệt của chính quyền thực dân Pháp, vừa gợi lên những tình cảm, những tư tưởng trong lòng độc giả như căm thù quân xâm lược, kích thích lòng yêu nước. Chữ "nghĩ" có nghĩa là "theo", còn có hàm ý là "hãy suy nghĩ...". Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu".

Chủ đề bài thơ: Tác giả mượn lời cha dặn con, lời ông Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu, qua đó nhằm kích thích lòng yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, đem máu đào giành lại độc lập cho Tổ quốc. Chủ đề trên được diễn tả một cách trang nghiêm, bằng giọng thơ vô cùng bi ai, thống thiết, gợi cảm.

Trần Tuấn Khải

II. Phân tích đoạn thơ trích trong bài "Hai chữ nước nhà" của Trần Tuấn Khải

"Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?".

"Hai chữ nước nhà" là bài thơ rất nổi tiếng của Trần Tuấn Khải, in trong tập "Bút quan hoài" (1926). Bài thơ được viết theo thể song thất lục bát ra đời đã ngót một thế kỉ, nhưng nó vần còn đem đến cho chúng ta ngày nay nhiều rung cảm. Đặc biệt là 20 câu thơ trong đoạn hai của bài thơ.

Đoạn thơ đã gợi lại những truyền thống tốt đẹp của đất nước, của dân tộc. Là dòng dõi "Hồng Lạc", có nhiều "anh hùng hiệp nữ". Một đất nước ở giời Nam, có giang sơn bờ cõi, đã trường tồn qua mấy ngàn năm. Các từ ngữ "hoàng thiên đã định", "riêng một cõi này", "xưa nay kém gì" đã biểu lộ niềm tự tôn tự hào dân tộc một cách mãnh liệt:

"Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,

Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.

Giời Nam riêng một cõi này,

Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!".

Các từ ngữ Hán Việt như: "Hồng Lạc", "hoàng thiên", "suy thịnh", "cõi", "anh hùng hiệp nữ"... được dùng khá đắc địa, vừa gợi lên không khí lịch sử, vừa tạo nên phong cách trang trọng.

Nguyễn Phi Khanh đã bị giặc Minh bắt giải sang Tàu; đất nước thân yêu đã bị quân thù giày xéo. Thù nhà, nợ nước, hãy khắc sâu vào tim óc, "Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên".

Giặc Minh tràn sang xâm lăng nước ta, biến nước ta thành phủ huyện của Tàu. Chúng ra sức đốt phá, cướp bóc, giết hại dân lành. Máu lửa ngút trời, nhân dân tan tác đau thương. Hàng loạt hình ảnh có tác dụng gợi lên lòng căm thù trước những hành động vô cùng dã man của giặc Minh tàn bạo:

"Than vận nước gặp khi hiến đổi,

Để quân Minh thừa hội xâm lăng,

Bốn phương khói lửa Từng bừng

Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!

Nơi đô thị thành tung quách vỡ,

Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con...".

Tâm can cha như "xé" tan nát thành trăm mảnh trước thảm họa vong quốc, trước cảnh "nòi giống lầm than", cả một không gian rộng lớn bao trùm đau thương tang tóc, từ Nùng Lĩnh đến Hồng Giang "như xây khối uất", "nhường vật cơn sầu". Nỗi đau thương của dân tộc không thể nào kể xiết, khiến cho "đất khóc, giời than". Cách viết của Trần Tuấn Khải vừa hình tượng, vừa biểu cảm mãnh liệt, chấn động. Lời cha dặn con là lời tâm huyết. Cha lo lắng cho vận mệnh của đất nước, lo lắng cho sự tồn vong của giống nòi:

"Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,

Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu.

Con ơi! Càng nói càng đau

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?"

Hai chữ nước nhà

Ẩn chứa trong dòng thơ là những giọt lệ, những lời than, những tiếng nức nở. Trần Tuấn Khải đã có một cách nói đặc sắc, không chỉ đưa người đọc, quốc dân đồng bào sống lại những năm tháng đau thương của dân tộc trong thế kỉ 15 khi Đại Việt bị giặc Minh xâm lược, mà còn gợi lên bao liên tưởng và sự kích thích trong lòng người về nỗi nhục mất nước, nỗi lầm than của nhân dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Có thể nói, đoạn thơ chứa chan tinh yêu nước và sôi sục căm thù giặc.

Leave a Reply