Viết một đoạn văn ngắn về phong cách thơ Nguyễn Bính

Trong các nhà thơ mới, Nguyễn Bính được xem là tiếng thơ “quen nhất”, vì thơ ông vừa là tiếng nói của thời đại mới lại vừa như đã có sẵn đâu đó trong dân gian bao đời rồi. Nói cách khác, Nguyễn Bính đã tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thống dân gian trong sáng tạo thơ mới. Người ta vẫn thấy, trong dòng “thơ quê” của thời ấy, nếu Anh Thơ thạo về cảnh quê, Đoàn Văn Cừ giỏi về nếp quê, Bàng Bá Lân nghiêng về đời quê, thì Nguyễn Bính lại đậm về hồn quê. Dù viết về những cảnh sắc hương thôn hay những mảnh đời lỡ dở, về những mối duyên quê hay những tấm tình quê, về cố nhân hay cố hương, về quê nhà hay quê người,... ở đâu ông cũng làm dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức, nhưng nổi bật vẫn là sự hòa quyện giữa giọng điệu quê với lối nói quêlời quê.

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng,

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình.

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?

Bao giờ bến mới gặp đò,

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

(1939)

(Văn học 11 - Ban KHXH, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, trang 239 - 240)

1. Chép lại những câu thơ có sử dụng các yếu tố chất liệu văn học dân gian trong bài thơ trên, gạch dưới những từ ngữ chỉ các yếu tố đó.

2. Bình giảng bốn câu thơ cuối của bài thơ (hai cặp lục bát).

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào

DÀN Ý

Yêu cầu 1: Chép những câu thơ (câu lục, câu bát hoặc cả cặp lục bát) có sử dụng các chất liệu văn học dân gian trong Tương tư cua Nguyễn Bính - gạch chân các từ, ngữ chỉ các yếu tố đó; các câu sau:

- Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

- “Bảo rằng cách trở đò giang“

- “Nhưng đây cách một đầu đình"

- “Biết cho ai hỏi ai người biết cho?”

- “Bao giờ bến mới gặp đò”

- “Nhà em có một giàn giầu

- Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

- Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Yêu cầu 2: Bình giảng bốn câu thơ cuối bài (2 cặp lục bát).

Các ý chính:

1. Giới thiệu sơ lược và khái quát về bài thơ:

Tương tư viết năm 1939 in trong tập Lỡ bước sang ngang (1940). Tương tư: nghĩa đen của chữ là nhớ nhau. Nghĩa “Tương tư” bài thơ này là nôi nhớ của tình yêu đôi lứa. Nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ này qua mọi cung bậc của nó.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông

2. Bình giảng đoạn kết (bốn câu - 2 cặp lục bát).

Nằm trong mạch cảm xúc của bài thơ, đoạn cuối này là mối kết tụ nỗi niềm - tương tư, đồng thời mở ra chân trời hi vọng hạnh phúc tình yêu.

a. Giọng điệu:

- Đoạn thơ được nói bằng giọng thầm thì ngọt ngào, gần gũi yêu thương (có thể so sánh với giọng thơ trong các đoạn trước để thấy chuyển đổi giọng thơ). Giọng trống không, xa cách, hờn dỗi trách móc không còn, cũng không còn những khắc khoải, day dứt.

- Cách xưng hô “tôi” - “nàng” đến “tôi” - “em” gần gũi hơn, thân mật hơn.

- Giọng khẳng định, khẳng định một sự thực hiển nhiên: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” dẫn tới một khẳng định khác trong hi vọng “Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”.

b. Hình ảnh “giầu cau”, cũng là hình ảnh chung kết của bài.

- Hình ảnh sóng đôi “giầu cau” là một chất liệu văn học dân gian được sử dụng cuối cùng trong bài để khẳng định tình yêu bền vững (sau khi đã sử dụng nhiều yếu tố khác). Điệp ngữ “nhà... có một” mang kết cấu song song, cũng biểu thị ý khẳng định, sự sóng đôi tồn tại.

“Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”: cấu trúc bỏ lửng, nói thực ra để khẳng định, khẳng định tế nhị, vì hình ảnh trầu cau là mọt ẩn dụ của chuyện hôn nhân hạnh phúc lứa đôi, là khao khát hạnh phúc hài hòa.

c. Đoạn kết bài thơ được thể hiện tinh tế, khéo léo, nhớ “giầu cau”, nhớ “Đông, Đoài” mà tình yêu liên tưởng.

- Kết một cách độc đáo nhưng phù hợp logic cảm xúc tâm trạng của cả bài: khép lại một nỗi niềm, giải được bệnh “tương tư” và mở ra niêm khát khao hi vọng hạnh phúc nhân duyên.

- Đoạn thơ đậm màu sắc nghệ thuật trữ tình dân gian (thể lục bát, hình ảnh “giầu cau”, “Đông Đoài”, cách ví von ẩn dụ... nó nhất quán với việc dùng các yếu tố chất liệu dân gian trong toàn bài, tạo được chất giọng tình yêu chân quê đằm thắm, bền vững, vốn là đặc trưng nổi bật của thơ Nguyễn Bính.

Leave a Reply