Văn nghị luận - Phân tích bài thơ Đồng Chí của Chính hữu

I. MỞ BÀI

Anh vẫn hành quân

Trên đường ra chiến dịch

Nẻo đường quê anh bước

Trăng non ló đỉnh rừng.

Trong cuộc trường chinh chống thực dân Pháp, cả dân tộc đã đứng lên để quyết giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Hình ảnh anh Vệ Quốc quân đã trở thành nhân vật trung tâm của cuộc kháng chiến. Đó là con người mang lí tưởng cao cả “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nơi những chàng trai hào hùng ấy thắm thiết mối tình đồng chi gắn bó, keo sơn. tình cảm cao quý ấy đa theo họ suốt chặng đường lịch sử để tạo nên những kì tích vang dội. Anh lính Cụ Hồ và moi hên hệ tốt đẹp ấy đã kết đọng, ngời sáng trong những áng thơ, lời văn. Dù viết không nhiều và chỉ tập trung về đề tài chiến tranh, người lính nhưng những lời thơ của Chính Hữư đã có những nét đặc sắc, đọc đáo. Bài thơ Đồng chí của ông đã vang lên trên đường ra trận, trong trái tim mỗi con người. (Trong đó nổi bật nhất là đoạn thơ sau).

“Quê hương anh... trăng treo”.

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

II. THÂN BÀI

Đất nước ngập chìm trong lửa đạn chiến tranh của bọn thực dân xâm lược, dân tộc sống kiếp nô lệ, lầm than. Làm sao có thể cúi đầu cam chịu? Làm sao co thể nhục nhằn chấp nhận? Đáp lại lời kêu toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, biết bao chàng trai đa lển đường theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi. Từ khắp mọi miền đất nước, họ đã hội họp về đây dưới mái nhà chung là quân đội. Sau những buổi luyện tập vất vả, sau những giờ phút chiến đâu căng thẳng, quyết liệt, họ lại rèn luyện, tâm sự với nhau biết bao điều. Đối với những chàng trai ấy, câu chuyện về làng quê bao giờ cũng say mê, cuốn hút và đó chính là nỗi lòng, là máu thịt của họ:

Phần 1:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi ngliềo đất cày lèn sỏi đá.

“Quê hương anh”, “làng tôi”, những hình ảnh ấy sao mà gần gũi thân thiết quá. Đó chính là tấm lòng yêu thương tràn đầy, là nỗi thương, niềm nhớ khôn nguôi trong tâm hồn anh chiến sĩ về quê hương. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” đi vào trong thơ thật tự nhiên, hòa hợp. Nó gợi về một vùng quê ngập mặn ở vùng đong bằng ven biển. đó chàng trai đã phải lặn lội, bươn chải để chắt chiu từng hạt lúa, ngọn bông. Ngược lại, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên một vùng quê khô cằn, sỏi đá ở vùng trung du, đồi núi. Họ đã đổ bao giọt mồ hồi, đổ bao sức lực để đổi lấy miếng cơm, manh áo. Khác nhau về quê hương, bản quán nhưng họ lai giống nhau về cảnh ngộ, xuất thân. Họ đếu là những người dân nghèo khổ, nhọc nhằn, đều là than phận của người dân mất nước.

Làng tôi nghèo

Nho nhỏ bên sông

Gió bấc lạnh lùng

Thổi vào mái rạ

Làng tôi nghèo

Gió mưa tơi tả

Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi.

Chính điều đó đã tạo nên mối đồng cảm trong tâm hồn người lính giúp họ trở nên gần gũi, thân thiết với nhau hơn. Cuộc chiến đấu với bao thử thách, gian khổ đã làm nảy nở, phát triển mối quan hệ, tình cảm nơi họ:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đèm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Đồng chí!

Phần 2:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.

Chỉ với hai dòng thơ nhưng đã khai mở cả một tâm tình, một nỗi lòng của người lính. Những hình ảnh liệt kê “ruộng nương, gian nhà” sao mà thiết tha, gần gũi đến thế! “Ruộng nương” là nơi anh chiến sĩ đã bao năm tháng gắn bó. Biết bao giọt mồ hôi đa đổ xuống để bông lúa được nảy mầm, tốt tươi, nuôi sống con người. Bên cạnh đó, hình ảnh “giãn nhà” lại gắn bó bao nhiêu kỉ niệm, ghi dấu ấn trong cuộc đời con người. Nơi đây, anh chiến sĩ đã sống những tháng ngày thơ âu, đã lớn lên với bao nhiêu tình cảm khó quên. Thế điều gì đã khiến họ bỏ lại tất cả để ra đi, để lên đường? Đó chính là sự cảm nhận, thấu hiểu thân phận của người dân mất nước, là sự đày đọa của những người bị áp bức, boc lột mà thủ phạm chính là bọn thực dân phong kiến ngang ngược:

Bát cơm chan đầy nưóc mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta.

Ai mà không mong muốn được sống bình yên bên cạnh gia đình, ai mà chẳng nặng lòng với quê hương. Nhưng vì nghĩa lớn, vì tình yêu quê hương đất nước và sự căm thù giặc sâu sắc, họ đã lên đường. Những từ “gửi... mặc kệ” đã diên tả thái độ cương quyết dứt khoát lúc ra đi. Nó phảng phất cái tư thế của chàng Kinh Kha ra đi không mong ngày trở về. Tư thế ấy thật dũng cảm, đáng khâm phục biết bao! Ta chợt liên tưởng đến hình ảnh người chiến sĩ trong thơ của Nguyễn Đình Thi:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Quyết tâm ra đi theo tiếng gọi núi sông nhưng họ nào có thể quên được những hình ảnh, những kỉ niệm, giờ đây đã trở thành máu thịt:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Chấp nhận cuộc sống đời lính là chấp nhận bao khó khăn, gian khổ nhưng các anh không kể khổ mà nói về những gian khổ ấy với thái độ thật bình thản. Các anh nhắc đến cái khổ để nhấn mạnh làm ngời sáng tâm hồn, tình cảm dành cho nhau:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Cũng lại “anh với tôi” cùng chịu đựng chia sẻ mọi thiếu thốn, gian khó. Với nghệ thuật liệt kê “cơn ớn lạnh... sốt run người... ướt mồ hôi” nhà thơ đã nói được phần nào tác hại của những cơn sốt rét rừng quái ác đang hoành hành nơi cơ thể người lính.

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ.

Thế mà anh vẫn đứng vững, vẫn thiết tha với sự nghiệp đấu tranh giải phóng. Chính nhờ sự động viên, dìu dắt, yêu thương trong tình đồng chí đã hun đúc cho họ một nghị lực mạnh mẽ để vượt qua.

Ra đi với những bộ y phục cũ kĩ thì giờ đây trải qua những tháng ngày miệt mài chiến đấu, chúng đã trở thành:

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá...

Chân không giày.

Câu thơ với nghệ thuật tả thực đến từng chi tiết, hình ảnh “áo rách vai, quần vá, chân không giày”. Nó gợi nhớ đến một thời kì gian khổ đến cùng cực của đời lính. Thiếu thuốc men, quân phục, lương thực, thiếu cả vũ khí, phương tiện phục vụ chiến đấu nhưng càc anh đã bất chấp tất cả, lướt thang mọi gian khổ, thiếu thốn để chiến đấu, chiến thắng.

Trên đường ra chiến dịch

Bất chấp cái khắc nghiệt, gian khổ của đời sống người lính chính là tinh thần lạc quan, yêu đời. Họ không hề nao núng, sợ hãi trước khó khăn. Nụ cười giữa thời tiết lạnh giá, giữa cái héo hắt của bệnh tật, xơ xác của gian khổ sao mà tươi đẹp và đầy ý nghĩa đến thế! Cái khí phách ngạo nghễ, anh hùng, thái độ kiên trì chịu đựng mọi gian khổ, hi sinh của anh Vệ Quốc quân đã đọng lại trong nụ cười ấy.

Ngôn từ, lời nói rồi cũng có lúc cạn, lúc vơi. Bao nhiêu nhiệm vụ, công việc đang chờ đợi anh thực hiện. Giây phút này chỉ còn đọng lại một hình ảnh thật đằm thắm:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Phần 3:

Khi đã hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và yêu thương nhau trong hoàn cảnh gian khổ ấy, người chiến sĩ ấy đã kết chặt trong tình đồng đội, đồng chí cao quý. Bài thơ kết thúc bằng một đêm trực chiến:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Thật oai hùng và cảm động biết bao hình ảnh những người lính đứng cạnh bên nhau để chờ giặc! Yếu tố thời gian “đêm nay” kết hợp với yếu tố không gian “rừng hoang” nói lên bao điều. Các anh vẫn thao thức suốt đem để chuẩn bị vào trận đánh, để ngăn chặn, tiêu diệt bước chân quân xâm lược. Các anh từ bỏ mái nhà ấm cúng để chấp nhận cái hoang vu, lạnh giá đến tê người của rừng hoang khi đêm xuống. Hoàn cảnh khác nghiệt ấy đã khắc họa thêm ý chí kiên cường, sự quên mình, hi sinh của anh Vệ Quốc quân. Thái độ “chờ giặc tới” đã diễn tả một tư thế, một diện mạo của một người chiến sĩ - tư thế tích cực, chủ động, sẵn sàng chiên đấu, tiến công. Giữa những giờ phút căng thẳng ấy, các anh chiến sĩ vẫn bình tĩnh vững tin vì ben cạnh họ còn có những đồng đội “đứng cạnh bên nhau”. Các anh đã đoàn kết thành một khối, một sức mạnh to lớn, các anh đã sát cánh sống chết có nhau, động viên và siết chặt tay súng để chiến đấu. Chỉ bằng vài chi tiết chấm phá, Chính Hữu đã “tạo” một tượng đài uy nghi, sừng sững về người chiến sĩ, về tình đồng chí keo sơn, gắn bó sống chết có nhau.

III. KẾT BÀI

Với phong cách độc đáo, nét bút riêng biệt, đặc sắc, nhà thơ Chính Hữu đã tạo cho bài thơ một dáng dấp đặc biệt. Hình ảnh thơ không khoa trương, hoa mỹ mà mộc mạc, chân thực đầy thi vị. Lời thơ như lời tâm sự thủ thỉ hết sức chân thành, bình dị mà lại vô cùng gợi cảm, xúc động. Chính bằng cảm xúc chân thành từ trái tim, nhà thơ đã phác họa hình ảnh anh Vệ Quốc quân với đức dũng cảm, hi sinh, quên mình. Đặc biệt tình đồng chí thiêng liêng chân thành nơi họ thật đep đẽ và sống mãi. Nhà thơ đã dựng lên một tượng đài uy nghiêm về anh chiến sĩ Vệ Quốc quân thời chông Pháp trong thơ ca, mọt tượng đài bất diệt trong lòng bao người.

Anh Vệ quốc quân ơi?

Sao mà yêu anh thế?

Leave a Reply