Văn nghị luận: Ngắm trăng

I. Giới thiệu một vài nét về "Nhật kí trong tù" (Ngục trung nhật kí) và Xuất xứ, chủ đề của bài thơ

1. Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí)

Nhan đề là "Ngục trung nhật kí" gồm có 134 bài thơ chữ Hán, phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt. Tập nhật kí bằng thơ được Hồ Chí Minh viết trong một hoàn cảnh đặc biệt từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa khắp các nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc:

"Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,

Mười tám nhà lao đã ở qua".

(Đến phòng chính trị chiến khu IV)

"Nhật kí trong tù" phản ánh một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn của người chiến sĩ vĩ đại. Nó cho thấy một ngòi bút vừa hồn nhiên giản dị, vừa hàm súc sâu sắc. Chất thép và chất tình, màu sắc cổ điển và tính chất hiện đại, bình dị kết hợp một cách hài hòa.

"Nhật kí trong tù" có tác dụng bồi dưỡng lòng yêu nước, tình nhân ái và nhân sinh quan cách mạng cho thế hệ trẻ chúng ta.

Trong bài "Đọc thơ Bác", thi sĩ Hoàng Trung Thông viết:

"Ngục tối trái tim càng cháy lửa,

Ních xiềng không khóa nổi lời ca.

Trăm sông nghìn núi chân không ngã,

Yêu nước, yêu người, yêu cỏ hoa".

2. Xuất xứ, chủ đề

Nhan đề bài thơ chữ Hán là "Vọng nguyệt". Bài thơ chữ Hán và bài thơ dịch đều theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Là bài thơ số 21 trong "Ngục trung nhật kí".

Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng, qua đó thể hiện tình yêu trăng, yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan yêu đời và phong thái ung dung của người chiến sĩ trong cảnh tù đày.

Nhật kí trong tù

II. Cảm nhận về bài thơ "Ngắm trăng" của Hồ Chí Minh

Trước chùm thơ "Trung thu" là bài thơ "Ngắm trăng". Hồ Chí Minh đã viết "Ngắm trăng" vào mùa thu năm 1942, đó là bài số 21 trong "Ngục trung nhật kí".

Nguyên tác bằng chữ Hán, đây là bản dịch thơ:

"Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".

Bài thơ viết về một cảnh ngắm trăng, một tư thế ngắm trăng trong tù, qua đó biểu hiện một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại của nhà thơ - chiến sĩ.

1. Hai câu thơ đầu nói lên một cảnh ngộ và một nỗi niềm: lòng bối rối biết làm thế nào trước cảnh đẹp đêm nay vì không có rượu có hoa để thưởng ngoạn? Trong tù phải chia nước, khẩu phần là lưng bát cháo loãng, muỗi rệp, phải đắp chăn giấy,... thiếu thốn và cay đắng vô cùng. Vậy tìm đâu ra rượu và hoa để ngắm cảnh đẹp đêm thu trong tù. Rượu, trăng, hoa là 3 thú vui tao nhã của thi nhân xưa nay. Câu đầu như một lời tự an ủi: "Trong tù không rượu cũng không hoa". Trước cảnh đẹp đêm thu, thiếu rượu và hoa, thi nhân băn khoăn, bối rối "biết làm thế nào?". Đó là tâm trạng, là bi kịch của một thi nhân có tâm hồn thanh cao và giàu tình yêu thiên nhiên:

"Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ".

Câu thơ chưa nói đến trăng mà người đọc đã cảm thấy một vầng trăng đẹp xuất hiện.

Ngắm trăng

2. Hai câu 3, 4 nói vầng trăng mới xuất hiện. Một cảnh ngắm trăng hiếm có:

"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".

Câu thơ chữ Hán nào cũng có hai hình ảnh đối chiếu: "nhân - nguyệt", "nguyệt - thi gia" và điệp từ "khán" (xem, nhìn, nhòm). Chữ "nhân" là người, đã biến thành "thi gia" - nhà thơ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Từ trong ngục tối, người chiến sĩ ngắm trăng qua song sắt nhà tù. Tư thế ngắm trăng ấy rất đẹp, như một cuộc "vượt ngục tinh thần". Trăng được nhân hóa có gương mặt và ánh mắt: "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Nhà thơ và trăng lặng lẽ nhìn nhau, cảm thông, chia sẻ với mối tình tri âm tri kỉ, cùng "đối diện đàm tâm". Hai câu 3, 4 đối nhau, ngôn ngữ, hình ảnh cân xứng, hài hòa. Trăng và nhà thơ, hai gương mặt trong sáng, hai lâm hồn thanh cao dừ bị song sắt nhà tù ngăn cách vẫn gần gũi sâu nặng ân tình. Có thể nói đây là 2 câu thơ trăng đẹp nhất, độc đáo nhất. Đã mấy ai ngắm trăng qua song sắt nhà tù? Tư thế ngắm trăng của Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu trăng, biểu lộ một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại. Nó còn biểu lộ khát vọng tự do; từ bóng tối ngục tù hướng về vầng trăng sáng, nhà thơ khẳng định một tâm thế:

"Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao".

Nhà văn Hoài Thanh nhận xét: "Thơ Bác đầy trăng", "Nhật kí trong tù" có 7 bài thơ nói đến trăng. Một thế giới trăng hữu tình và chứa chan thi vị:

- "Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,

Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu"

(Trung thu)

- "Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,

Nhòm song, Bắc đẩu đã nằm ngang".

(Đêm lạnh)

- "Trên trời, trăng lướt giữa làn mây".

(Đêm thu)

- v.v...

"Ngắm trăng" và thế giới trăng ấy phản chiếu một hồn thơ "mênh mông bát ngát tình". Ngắm trăng vì yêu trăng cũng là yêu tự do.

Leave a Reply