Văn nghị luận: Phân tích bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ

1. Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời

- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ngay khi còn là sinh viên và đi dạy học, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tích cực tham gia các phong trào yêu nước chống Mĩ - Ngụy ở nội thành thành phố Huế. Năm 1966, ông lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ. Ông từng là Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên - Huế, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà vãn vừa cầm bút vừa cầm súng, có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút kí, tuỳ bút. Kí của ông có một diện mạo riêng - vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hoá, lịch sử rất phong phú - có những đóng góp mới cho văn xuôi Việt Nam hiện đại.

- Ai đã đặt tên cho dòng sông? được tác giả viết tại Huế, ngày 4-1-1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có ba phần. Văn bản trong SGK là phần thứ nhất.

Hoàng Phủ Ngọc Tường

2. Về dòng sông Hương

Sông Hương là một dòng sông nổi tiếng chảy giữa lòng thành phô" Huế (Huế là tên đọc chệch đi của Hoá - xưa xứ Huế được gọi là Thuận Hoá). Khi gọi Châu Hoá như tác giả viết trong bài tuỳ bút thì hiệu quả là gợi ngay một ấn tượng về miền đất lịch sử.

Hai nguồn chính làm nên dòng sông này là dòng Tả Trạch và Hữu Trạch phát nguồn từ dãy Trường Sơn đổ về, họp lưu tại ngã ba Bằng Lãng tạo thành sông Hương. Sông Hương chảy từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An, vượt qua chừng 30km với tốc độ dòng chảy chậm, hiền hoà. Nguyên nhân là do độ chênh giữa mực nước sông và nước biển không lớn nên dòng chảy không mạnh. Cũng có một số nhân tố khác mà chính bài kí có nói: Những chi lưu là những nhánh sông đào hai bên sông và hai hòn đảo nhỏ trên sông cũng làm giảm lưu tốc của dòng chảy.

Huế là nơi thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, từng sông. Do đó, mở đầu bài kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên tưởng dòng sông với tình yêu trong Truyện Kiều, một cách bắt đầu câu chuyện hấp dẫn vì đặt hình tượng dòng sông vào ngữ cảnh văn hoá toàn dân tộc. Ông viết: "Chính sông Hương và thành phố của nó vẫn gợi cho tôi, như một vang bóng trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở".

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là nhan đề bài tuỳ bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thực ra, truy tìm nguồn gốc tên gọi sông Hương chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ tình yêu dòng sông, yêu quê hương xứ sở tươi đẹp, với bề dày truyền thông văn hoá và cách mạng. Đoạn trích đã lược bớt phần tác giả bàn về cội nguồn tên gọi Hương Giang. Để hiểu đầy đủ về vấn đề này, chúng tôi xin cung cấp một cách ngắn gọn các cách cắt nghĩa tên gọi sông Hương đã được các nhà nghiên cứu tổng hợp.

Về cơ bản, đến nay có bốn cách giải thích khác nhau về cội nguồn tên gọi sông Hương:

- Theo truyền thuyết, khi xưa, chúa Nguyễn Hoàng trên đường từ Quảng Trị đi tuần du về phương Nam, nghỉ ngơi bên bờ sông Hương, nằm mộng thấy một người phụ nữ nhà trời (thiên mụ) trao cho nén hương và dặn rằng, đi thuyền xuôi theo dòng sông, đến khi hương tàn thì dừng lại, đấy là nơi có thể định đô. Vì thế mà Nguyễn Hoàng đã chọn được nơi đóng thủ phủ Phú Xuân, sau này là kinh đô. Để ghi ơn "thiên mụ", ngay trong năm 1601, chúa Nguyễn Hoàng đã xây dựng ngôi chùa Thiên Mụ nổi tiếng và đặt tên cho dòng sông là sông Hương.

- Một dã sử lại kể rằng vua Quang Trung đã ra lệnh chính thức gọi Hương Giang cho toàn bộ dòng sông từ trên núi cao ra đến biển, chấm dứt tình trạng mỗi đoạn sông lại được gọi riêng theo tên địa phương như Đan Điền, Hương Trà...

- Cắt nghĩa tên sông bằng các yếu tố tự nhiên có thuyết nói rằng vì cây thạch xương bồ mọc ở hai bên bờ hai dòng tả trạch và hữu trạch, một loại dược liệu quý, có mùi thơm, từ đó có tên sông Hương.

- Cách cắt nghĩa đầy nghệ thuật mà Hoàng Phủ Ngọc Tường tâm huyết, ơ đoạn kết thiên bút kí mà chúng ta đang nói đến, ông viết: "Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy; trong đó, tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước trăm hoa đổ xuống dòng sông, để làn nước thơm tho mãi mãi. Tôi lĩnh hội ý nghĩa của truyền thuyết ấy như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muôn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử".

Một cách lí tưởng, để hiểu được đầy đủ bài tuỳ bút đặc sắc này, người đọc cần có một số hiểu biết nhất định về xứ Huế. Chẳng hạn nếu có cơ hội một lần đến thăm các lăng tẩm ở Huế thì sẽ cảm nhận hết cái so sánh ví von dòng Hương Giang chạy qua khu vực này có vẻ đẹp trầm mặc nhất; hoặc nếu ta có một lần đến cầu Tràng Tiền vắt qua sông Hương, sẽ hiểu chính những nhịp cầu có dáng cong như cầu vồng trên cây cầu này đã gợi ý cho so sánh của tác giả "như những vành trăng non". Tác giả dẫu là tài hư cấu, tưởng tượng đến mấy thì vẫn là dựa trên cơ sở những gợi ý từ hiện thực.

3. Về thể văn tuỳ bút

Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng Chủ biên, NXB Giáo dục, 2004), bút kí là một thể kí có quy mô tương ứng với truyện ngắn nhưng khác truyện ngắn ở chỗ tác giả bút kí không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực. Bút kí ghi lại những con người thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đốì với các sự kiện được đề cập đến nhằm khám phá ra các khía cạnh "có vấn đề", những ý nghĩa mới mẻ, sâu sắc trong va chạm giữa tính cách và hoàn cảnh, cá nhân và môi trường. Bút kí có thể thiên về văn học, cũng có thể thuộc về báo chí tuỳ theo mức độ biểu hiện cái riêng của tác giả và mức độ sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng tính chất tác động của nó đốì với công chúng.

Chúng ta vừa làm quen với thể tuỳ bút qua bút kí Sông Đà của Nguyễn Tuân. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là nhà văn viết tuỳ bút tài hoa nổi tiếng. Thể tuỳ bút cho phép tác giả kể, tả và phát biểu trực tiếp, không hạn chế các suy nghĩ, cảm xúc, bình luận tức thể hiện "cái tôi" của mình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã biết khai thác tối đa đặc trưng của tuỳ bút khi viết về sông Hương, một đối tượng chiếm lĩnh có những điểm khác căn bản so với sông Đà của Nguyễn Tuân.

Dòng sông Hương và đôi bờ

II. PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH

1. Đặc điểm về nội dung

Đoạn trích có hai phần với hai nội dung chính riêng, phân biệt bằng dấu sao. Phần đầu dành cho những dòng bình luận, suy ngẫm về cảnh quan tự nhiên của sông Hương và những cảnh quan nhân tạo hai bên bờ dòng sông; phần thứ hai viết về lịch sử và văn hoá đôi bờ sông Hương.

a. Cảnh quan tự nhiên của sông Hương và các không gian văn hoá đôi bờ dòng sông

Nhà văn sử dụng ngôn ngữ tự sự nhưng không phải là tự sự về một đối tượng của khoa Địa lí học mà như kể về một sinh thể, một cô gái. Và song song một dòng mạch trữ tình theo tuyến tự sự. Kể, tả và bình luận được kết hợp nhuần nhuyễn làm nên chất tuỳ bút đặc trưng của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Để viết thiên tuỳ bút, nhà vàn phải là người rất am hiểu và có tình cảm gắn bó thân thiết với dòng sông. Nhưng để tác phẩm thành công, tác giả phải có tài năng văn chương thực sự.

Sông Hương từ dãy Trường Sơn đổ ra biển Đông có hai chặng khác nhau. Chặng thứ nhất từ ngọn nguồn trên sườn Đông dãy Trường Sơn quanh co qua các dãy đồi núi; chặng thứ hai, khi mặt nước dòng sông đã phẳng lặng dần đến khi gặp chùa Thiên Mụ là bắt đầu tìm đúng đường về thành phố. Nhà văn ngược lên tận ngọn nguồn con sông để nhận diện nó rồi xuôi theo dòng để quan sát nó lượn quanh thành phố Huế. "Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muôn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng". Và kết quả là một phát hiện "Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sông một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại". "Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già [...] và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Đây là những so sánh nhân cách hóa thật đặc sắc. Nhiều tên gọi các dòng sông gắn với hình ảnh người mẹ (sông Mê Kông và sông Hồng - còn gọi là sông Cái - đều là những sông Mẹ), nhưng tác giả đã thích so sánh sông Hương với người thiếu nữ.

Người viết lần theo dòng chảy con sông không phải với tư cách là nhà địa lí, hay người đi vẽ bản đồ mà là như một chàng trai khám phá tính cách của cô gái. Từ góc nhìn đó, những tưởng tượng và so sánh thú vị xuất hiện. Dòng sông như một cô gái đẹp đã nằm ngủ từ bao đời giữa cánh đồng hoang dại của Châu Hoá, rồi đến khi có "người tình mong đợi" đã đến đánh thức người đẹp - người tình đây hẳn là thành phố Huế, song sự xuất hiện của Huế lại gắn liền với con người, lại không thể tách rời với tiến trình Nam tiến của dân tộc. Dòng sông tạo nền tảng để xuất hiện văn hoá, văn minh, song cũng đợi con người để hiện thực hoá tiềm năng đó. Những câu văn có sức gợi liên tưởng vô cùng, tuỳ thuộc vào vốn sông, sự từng trải và quan tâm của người đọc.

Xuống đến đồng bằng, dòng sông uốn lượn qua nhiều khúc quanh để đến gặp thành phố. Từ chùa Thiên Mụ, dòng sông đã tìm đúng đường về "Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như "những vành trăng non". Tác giả hình dung đó là những chuyển động "uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó". Không những đặc tả các đường uốn lượn, tác giả còn có quan sát và cách diễn đạt thú vị về màu sắc con sồng, sắc sông trở nên xanh thẳm khi đến chân núi Hòn Chén (tác giả dùng tên chữ là Ngọc Trản - nguyên nghĩa là Chén Ngọc), vùng đồi núi lô nhô và lăng tẩm tạo nên vẻ đẹp trầm mặc nhất cho con sông...

Dòng sông chảy qua Huế đi chậm "cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh". So sánh sự yên bình, "điệu chảy lặng lờ" của nó khi ngang qua thành phố với dòng chảy gấp gáp của sông Nê-va khi đi qua Lê-nin-grát (nay là Xanh Pê-téc-bua) nước Nga, liên tưởng đến triết lí của Hê-ra-clít "không thể tắm hai lần trong một dòng sông" là đoạn văn tài hoa, trí tuệ mà cũng rất hấp dẫn.

Cảnh quan thiên nhiên góp phần tạo nên những nền văn hoá đặc sắc. Dù tả cảnh quan dòng sông, tác giả luôn liên tưởng, mở rộng suy ngẫm về đặc trưng riêng của dòng sông Hương, quan sát không gian văn hoá hình thành quanh đôi bờ và dọc theo dòng sông. "Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya [...] toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huê" đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya". Khoang thuyền, mái chèo khuya đều là những hình ảnh liên hệ với dòng sông. Đến đây, nhà văn lại liên tưởng đến những bản đàn trong Truyện Kiều bất hủ như một minh chứng hùng hồn cho vai trò văn hoá của sông Hương.

Trước khi giã từ thành phố để về với biển cả, "nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trân Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao [...] tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu". Rồi lại so sánh với nàng Kiều "Và giông như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả"...

Nhìn chung, cảnh quan sông Hương được nhìn ngắm từ góc nhìn văn hoá. Nhà văn suy ngẫm đầy chất trữ tình về không gian văn hoá trên hai bờ sông Hương. Uyên bác, lịch lãm, từng trải và tài hoa là những phẩm chất dễ thấy của tác giả trong phần này.

Sông Hương ngày nay

b. Sông Hương trong lịch sử và thi ca

Sông Hương - mà cũng là Huế - đã có lịch sử của nó trong dòng chảy của lịch sử dân tộc. Không thể tách rời sông Hương với lịch sử dân tộc, càng không thể tách rời nó với Huế. Cảm hứng ấy toát lên từ những câu văn tự sự tưởng như khô khan. "Hiển nhiên là sông Hương đã sông những thế kỉ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa du của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại".

Càng về cuối thời trung đại, trong các thế kỉ XVIII, XIX, Huế và sông Hương càng có mặt nhiều hơn trong các sự kiện lịch sử "long trời lở đất" và tiếp tục truyền thống ấy qua Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. "Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người, anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển".

Đến thời hiện đại, Huế và sông Hương đã có những hi sinh, mất mát đầy cống hiến cho lịch sử cách mạng dân tộc. Đến đây, dường như sông Hương tạm lùi vào hậu trường để Huế hiện ra trên tiền cảnh. Nhà văn trầm tư trên sự kiện lịch sử - cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1968, khi toàn miền Nam từ Quảng Trị đến Nam Bộ, trong đó có Huế, đồng loạt nổi dậy đánh Mĩ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đó cho thấy sức mạnh của cách mạng, làm suy yếu kẻ thù, buộc chúng phải điều chỉnh chiến lược cả trên chiến trường và trên bàn Hội nghị Pa-ri. Nhưng mặt khác, trong cuộc chiến đấu ấy, Huế cũng chịu nhiều tổn thất: "Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó". Sự đánh giá tổn thất, hi sinh mà Huế gánh chịu được nhìn từ cả hai phía. Chính người Mĩ đã lên án sức phá hoại tàn bạo đối với Huế do các trận bom của Mĩ. Nhưng thật xúc động là hình ẳnh người Đại tướng "đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ" khi nói đến "cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc" của thành phố Huế. Không có chữ nào nói về mất mát, hi sinh nhưng "ngấn lệ" trong mắt "người già" đã nói lên tất cả.

Sông Hương, dòng sông của những sự kiện lịch sử hào hùng và dòng sông của cuộc sống hằng ngày. "Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước". Tại sao đang suy ngẫm về lịch sử tác giả lại chuyển đột ngột sang hình ảnh sắc áo cưới của Huế rất xưa mà các cô dâu vẫn mặc? Có thể đoán rằng, nhà văn muốn nói sự sông hiền hoà, dịu dàng vẫn là mạch sông chính của xứ Huế, của dòng sông Hương, khuôn mặt thực hiền hoà của dòng sông đôi khi ẩn giấu trong màn sương.

Sông Hương là suôi nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca, nhạc hoạ. Mỗi nhà nghệ sĩ đều có khám phá riêng về dòng sông, hay như cách nói của tác giả muôn nhân mạnh tính chủ động của con sông như một sinh thể "dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ". Từ Nguyễn Du với Truyện Kiều bất hủ, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, đến thi ca cách mạng. Thi ca cùng với kiến trúc, ầm nhạc, hội hoạ góp phần làm cho không gian văn hoá sông Hương thêm phong phú, giàu bản sắc.

2. Đặc điểm về nghệ thuật

Như đã nói, bài bút kí thuộc thể tuỳ bút. Nhà văn đã kết hợp phong cách khảo cứu với sự thể hiện kiến thức sách vở uyên bác; bộc lộ sự lịch lãm, từng trải với vốn sống phong phú, sâu sắc; khả năng phân tích, bình luận tinh tế, sắc sảo và một trái tim giàu tình cảm, giàu tình yêu thương con người và quê hương đất nước. Thiên tuỳ bút như một tác phẩm mẫu mực viết về thắng cảnh quê hương đất nước. Dòng sông như một sinh thể sống động. Dòng sông tạo nên cả một không gian văn hoá. Dòng sông qua lịch sử lâu đời, có những trang bi hùng song trong trường kì lịch sử, nó đẹp và thân thương như một người con gái. Những điểm nhìn đa chiều giúp người đọc yêu dòng sông hơn, tự hào về quê hương, đất nước hơn.

Trong thiên tuỳ bút, tác giả chuyển đổi giọng điệu khá linh hoạt. Khi là lối kể tự sự, khi lại là sự tưởng tượng bay bổng với những hình ảnh bất ngờ. Chẳng hạn, ngay trong một đoạn văn, ta cũng thấy sự thay đổi này: "Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, / không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muôn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng" (dấu / chúng tôi dùng để ngắt đoạn).

Có khi là cả một đoạn văn chính luận khô khan sau đó là những cử chỉ im lặng đầy xúc động như đoạn văn viết về cuộc Tổng tiến công Mậu Thân.

Sự xen kẽ giữa tả, kể về sông Hương với sự vận dụng kiến thức sách vở và kiến thức cuộc sống cũng là một nhân tố tạo nên chất tuỳ bút đặc sắc. Tác giả đã có dịp đi qua nhiều dòng sông lớn trên thế giới như sông Xen, sông Đa-nuýp, sông Nê-va, đó là vốn sống; tác giả thuộc Truyện Kiều, thơ Cao Bá Quát, Tản Đà, dẫn cả tư tưởng biện chứng của Hê-ra-clít,... đó là học vấn. Tác giả có quan điểm riêng về nghệ thuật Huế: "Hình như trong khoảnh khắc chùng lại cửa sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya", đó là sự lịch lãm, tinh tế trong trải nghiệm và quan sát. Nhìn chung, tuỳ bút cho phép tác giả bộc lộ toàn diện các phẩm chất trí tuệ và cảm xúc của mình.

Leave a Reply