Viết bài văn cảm nghĩ về bài thơ Rằm thánh giêng

Bài tham khảo 1

Xuyên suốt tiến trình nền văn học của Việt Nam ta, sẽ chẳng khó để ta bắt gặp một tác phẩm của Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, người cha già kính yêu trong trái tim của triệu con dân đất Việt. Những tác phẩm của Người để lại mang giá trị lớn cả về nghệ thuật lẫn nội dung tư tưởng. Trong đó ta phải kể đến bài thơ "Rằm tháng giêng" 

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Bài thơ được sáng tác trong những năm 1948. Thời điểm đất nước ta còn đang gặp rất nhiều những khó khăn gian khổ trong buổi đầu của cuộc kháng chiến p trường kì. Vài một đêm đi thuyền trên sông hồ, giữa khung cảng núi rừng của chiến khu Việt Bắc, Người đã ngẫu hứng viết lên bài thơ với đầy xúc cảm trong lòng .

"Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân sang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

Yên ba thâm sứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền

(Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).

Mở đầu toàn thi phẩm là không gian nơi núi rừng chiến khu Việt Bắc mở rộng:

"Rằm xuân lồng lộng trăng soi

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân"

Đó là đêm trăng rằm "nguyên tiêu", trăng là hình ảnh quen thuộc của thi cổ và dường như cũng là thi liệu quen thuộc đã trở đi trở lại nhiều lần trong thơ của Người. Ta tường gặp một vầng trăng tuyệt mĩ gợi tình trong tù:

"Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ 

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ 

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"

Hai chữ "lồng lộng" trong bản dịch dường như mở ra một không gian núi rừng thêm bao la, trải dài thêm. Ánh trăng dường như làm cho cảnh vật mang một vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. khung cảnh núi rừng Việt bắc nơi đây bao là một màu xanh ngát, nhuốm ánh trăng, phủ lên mà màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông giờ đây như được tiếp thêm sự sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên. Cung một câu thơ nhưng lại có đến ba chữ xuân lặp lại

“Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”

Mùa xuân là mùa của sự sống, chồi non. Xuân phơi phới, khắp đất trời quê hương ngập tràn sắc xuân, xuân của dòng sông, dòng nước cùng cái xuân mát rượi của bầu trởi cao xanh. Khí xuân tràn ngập sự sống, bà từ xuân làm nổi bật cái thần thái của cảnh vật, sống nước và bầu trời. khác hoàn toán với một Việt Bắc chiến khu đầy rẫy những hiểm nguy, địa hình hiểm trở, sự gầm thú của núi rừng và thú dữ. Giờ đây hiện lên trước mắt ta là một khung cảnh thiên nhiên đẹp xiết bao.

“Yên ba thâm sứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”

dù tả cảnh nhưng đến hai câu cuối dường nhue ta thấy rõ nét hơn tâm trạng, hơi thở của con người. thái độ lạc quan yêu đời của nhà Cách mạng ấy thật đáng khâm phục, nơi sâu thẳm mịt mù trong khói sóng rất đỗi thiêng liêng, bí aane mà đẹp như trong huyền thoại, nơi bàn chuyện hệ trọng sống còn của đất nước, vậy mà Người vẫn đắm say thưởng ngoạn một vầng trăng đẹp, một vầng trăng viên mãn. ở đó cái thực và ảo đan xen vào nhau tạo nên một bức tranh hài hóa, sinh động hơn bao giờ hết. “Yên ba thâm xứ” là ảo, “đàm quân sự” là thực, “nguyện chính viên” là thực nhưng “nguyệt mãn thuyền” là ảo. Song cái ảo đó chính là chất lãng mãn, chất trữ tình trong thơ Người. sau hội nghị quan trọng, quyết định những vấn đề đến vận mệnh của Đảng, của đất nước; con thuyền, con người hòa quyện với thiên nhiên, thấm đẫm, tràn trề lai láng với ánh trăng.

"Nguyên tiêu” (rằm tháng giêng) là tuyệt tác về trăng của Người. ở đó ta bắt gặp tinh thần lạc quan yêu đời, ý chí kiên cường, tư chất đáng quý của con người Cách mạng đáng mến đến dường nào. Và trên hết là ta thêm hiểu về một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu nước, yêu dân tươi đẹp của vị cha già kính yêu của dân tộc đất Việt.

Bài tham khảo 2

“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến p, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo Tiệp”, “Thu dạ”,…Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tắc bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:

“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.

Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.

Xuân sang xuân thuỷ tiếp xuân thiên

Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.

“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”.

(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)

“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.

Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.

Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:

“Yêu ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.

Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”, … mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm hco bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.

Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:

“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”.

(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).

“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến nhưng vần thơ hoa lệ:

“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?

Trăng nước như xưa chín với mười”.

(Triệu Hỗ – Đường thi)

“Thuyền mấy là đông, tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”

(Bạch Cư Dị)

“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,

Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”

(Nguyễn Trãi)

.v.v….

Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.

“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đoá hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.

Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp.

“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận …

Leave a Reply