Người đọc xưa nay vẫn coi Chinh phụ ngâm khúc là một tác phẩm có ý nghĩa chống chiến tranh phong kiến. Qua các bài đã học và đọc thêm, em nhận ra ý nghĩa ấy như thế nào

Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra trận - là một trong những kiệt tác của nền văn học dân tộc. Ra đời trong thời kì chế độ phong kiến suy tàn, chiến tranh xảy ra liên miên, làng xóm tiêu điều, ruộng vườn xơ xác, cảnh chia lìa xảy ra khắp nơi, đâu đâu cũng vang lên lời hờn oán, Chinh phụ ngâm khúc là tiếng vọng của những lời hờn oán đó. Hơn một lời hờn oán, tác phẩm trở thành bản cáo trạng kết án chiến tranh phong kiến phi nghĩa chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Người đọc xưa nay vẫn đánh giá cao tác phẩm, một phần vì ý nghĩa đó.

Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra trận

Để tránh đụng chạm với thế lực các tập đoàn phong kiến, tác giả phải mượn tất cả tên người, tên đất ở văn học Trung Quốc. Trong tác phẩm, cũng vì lí do trên, tác giả không trực tiếp lên án chiến tranh. Trái lại, có vẻ như tác giả đồng tình với cuộc chiến tranh đang xảy ra. Người chinh phụ coi chiến tranh như một cơ hội để chồng trổ tài, lập công mong đoạt ấn phong hầu, tử ấm thê phong. Nhưng xuyên suốt tác phẩm lại là nỗi lòng hờn oán, hối hận của người chinh phụ, là cảnh chia lìa đau khổ, là cảnh gian nan chết chóc của chiến tranh. Ý nghĩa chống chiến tranh - ý nghĩa khách quan của tác phẩm - bật lên từ đó.

Chinh phụ ngâm khúc không trực tiếp miêu tả chiến tranh với toàn bộ sự khốc liệt gian khổ của nó. Tác giả chỉ gợi lại cả một thời loạn lạc trong một câu mở đầu khúc ngâm: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Hình ảnh chiến trường trong tác phẩm cũng chỉ là hình ảnh tưởng tượng của người chinh phụ. Toàn bộ khúc ngâm là tâm trạng người chinh phụ. Trong những ngày chia li dằng dặc, tâm trạng ấy diễn biến phức tạp, là một chuỗi những lưu luyến, sầu nhớ, chờ đợi, lo lắng, cầu mong đan kết, xen kẽ nhau. Trước hết là nỗi sầu phải chia li của đôi lứa thiếu nièn. Ngay trong buổi ra quân có vẻ hùng tráng, bóng cờ, tiếng trống xa xa, nàng đã linh cảm một ngày vĩnh biệt nên bịn rịn không muốn chia tay:

Nhủ rồi tay lại trao liền,

Bước đi một bước lại vin ảo chàng.

Mà chồng nàng, chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, cũng đâu phải trang anh hùng phép công là trọng, niềm tây sá nào. Khi chia li, cũng như nàng, chàng lưu luyến, buồn rầu:

Cùng trông lại, mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng, ý thiếp ai sầu hơn ai?

Và:

Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.

Nỗi sầu (là chàng) thì lên cửa ải chinh chiến, nỗi oán (là nàng) thì ra cửa ngóng trông! Thật tội nghiệp.

Chàng đi rồi, nàng hỏi hàng dương liễu:

Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?

Rồi nàng băn khoăn, phải chăng số phận của chàng là thân ở cõi xa mưa gió, còn kiếp nàng là phải chịu lẻ loi trong buồng củ chiếu chăn.

Trong cửa này đã đành phận thiếp

Ngoài mây kia, hả kiếp chàng vay?

Buồn nhớ rồi oán trách. Nàng không chỉ trách xanh kia thăm thẳm từng trên. Vì ai gây dựng cho nên nỗi này, mà oán trách chính vua chúa, thủ phạm của cuộc chiến tranh giành quyền lực và đàn áp nông dân khởi nghĩa đương thời:

Trên trướng gấm, thấu hay chăng nhẽ?

Nàng đợi chờ, mơ tưởng. Càng chờ càng xa:

Trải mấy thu, tin đi tin lại,

Tới xuân này tin hãy vắng không.

Cứ mỗi lần hi vọng lại một lần nàng thất vọng:

Hẹn cùng ta Lũng Tây nham ấy,

Sớm đã trông nào thấy tăm,

Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ,

Chiều lại tìm nào có tiêu hao,

Thật là:

Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai?

Chinh phụ ngâm khúc là tiếng vọng của những lời hờn oán đó

Trong tâm trạng chờ đợi, sầu nhớ đó, nàng tưởng tượng ra cảnh chồng nơi chiến trường. Cảnh chiến trường mà nàng tưởng tượng ra thật thê lương, ảm đạm, hãi hùng. Đó là những cuộc hành quân liên miên:

Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,

Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua,

Chàng hào kiệt ngày nào giờ hiện ra bạc nhược, mệt mỏi vì gian khổ:

Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,

Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon,

Ồm yên, gối trống đã chồn,

Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.

Hơn cả nỗi gian khổ là cái chết đang rình rập mỗi bước chàng đi, mỗi nơi chàng đến:

Xông pha gió bãi trăng ngàn

Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành

Nàng nhận ra ảo tưởng vinh hoa dại khờ của mình và hối hận đã để chồng ra đi vì miếng bả công danh:

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu

Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Bởi vì, như người xưa nói cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi - xưa này chiến trận mấy ai trở về - nàng lo chồng có thể bỏ mình nơi chiến địa, rồi lo chàng, nếu may mắn trở về, dẫu có tử ấm thê phong, đỉnh non bia đá đề danh đi nữa, thì chàng cũng đã tóc bạc, đã già như Ban Siêu đời Hán:

Phận cha già ruổi chiến trường,

Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.

Ngay bản thân mình, nàng cũng cảm thấy một năm một nhạt màu son phấn, nhan sắc mau tàn, thời gian trôi nhanh.

Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,

Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.

Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,

Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.

Vậy là, cuối cùng nàng chinh phụ - và người đọc - đã thấy rõ sự phi lí của chiến tranh, sự tàn nhẫn của chiến tranh. Chiến tranh đối lập với hạnh phúc, phá hoại hạnh phúc. Toàn bộ khúc ngâm trở thành bản cáo trạng lên án chiến tranh phong kiến, đòi quyền hạnh phúc cho con người. Nguyện vọng sum họp, hạnh phúc lứa đôi của người chinh phu thống nhất với nguyện vọng của đông đảo nhân dân đang phản đối và chán ghét nội chiến phong kiến và các cuộc chiến tranh phi nghĩa nói chung. Điều đó làm nên một phần quan trọng giá trị tác phẩm. Cảm ơn tác giả và dịch giả đã để lại cho chúng ta một tác phẩm văn chương kiệt xuất có tinh thần nhân đạo cao cả. Chinh phụ ngâm khúc xứng đáng được xếp vào hàng những tác phẩm ưu tú nhất của văn học Việt Nam.

Leave a Reply