Viết đoạn văn phân tích phần trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ở Chinh phụ ngâm bắt đầu từ câu 25 đến câu 36 ở SGK

Cái tâm trạng thất vọng của nàng cũng làm cho cảnh vật cũng muốn buồn theo:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Một bức tranh thiên nhiên gợi lên cái tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện hàng loạt những hoạt cảnh sinh động, với hình ảnh mưa xuân rả rích nhưng nó ẩn mình một sức mạnh ghê gớm đã gây nên những đoạn trường đứt ruột không chịu nổi của một con người đau khổ; bằng các từ gợi cảm giác mạnh như “bổ mòn”, “xẻ héo” và các từ chỉ âm thanh lắng đọng “nền khơi, kêu vẳng” phải chăng đây là những âm thanh mà sinh lực của người chinh phụ còn sót lại:

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô

Giọt sương phủ bụi chim gù,

Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nên khơi.

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Trước mắt nàng là những cảnh vật thiên nhiên vô cùng sống động, nó khơi dậy từng màng từng lớp trong không gian như biểu hiện rõ cái sức mạnh của mình, nhưng cái sức mạnh ấy có ý nghĩa gì khi nàng vẫn thẫn thờ như một kẻ mất trí, không còn phân biệt được âm thanh và hình ảnh của cảnh vật nữa. Nhưng có lẽ nhờ cơn gió mạnh thổi qua, cái tiếng gió ấy đã thóc lên, vén tấm màn lên làm nàng hồi tỉnh lại với những cảnh vật ở bên ngoài tiếp tục hiện ra trước mắt:

Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc

Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên

Lá màn lay ngọn gió xuyên

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm

Cảnh vật càng về khuya càng sinh động lạ thường, với âm thanh ra rả của những chú dế mèn kêu vang, hòa với ánh trăng soi sáng cả hiên nhà. Hàng tiêu trước ngõ cũng đang vui đùa cùng chị gió. Cảnh vật đẹp như thế đấy, sinh động và cụ thể thế đấy nhưng lòng của người chinh phụ vẫn cứ bồi hồi, cô đơn. Tất cả dường như gợi lên sự cô liêu trống trải, cô quạnh cho nàng và như có cái gì đó che khuất, ẩn nấp trong điều nàng ngóng trông. Cái tâm trạng ấy cũng hòa đồng với tâm trạng của người thiếu phụ trong “Trông bốn bề”. Cảnh vật trong bài thơ này cũng hết sức sông động và cụ thể với bờ bãi phù sa, mặt nước ngàn dâu, cỏ xanh, xóm thôn và đàn cò trắng nhưng rồi người thiếu phụ ấy cũng cô đơn và buồn tẻ.

Trông bến nam bãi che mặt nước,

Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh,

Nhà thôn mấy xóm chông chênh,

Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.

Thiên nhiên vẫn cứ muôn màu muôn sắc, nó trùm lên khoảng không trung rộng lớn của bầu trời mà con người thì vẫn sầu tư, ủ rũ:

Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm

Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau

Biện pháp liên hoàn trong khổ thơ cuối này cứ trùng điệp nhau, khơi gợi lên cái cảnh trăng hoa xoắn xuýt nhau, tỏa sắc lên hương để biểu hiện cho niềm vui tuổi trẻ, khao khát đắm say với niềm hạnh phúc hiếm hoi bất ngờ. Có lẽ chính thiên nhiên lúc này đã đánh thức tâm trạng của người thiếu phụ một lần nữa, làm nàng có thể trở về với tâm trạng cân bằng. Nhưng cảnh sắc vừa nhóm lên để cân bằng thì tâm trạng ấy lại biến đổi.

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.

Ta lại đi vào hành trình của tâm trạng mới, hoa nguyệt ấy vẫn không giấu cất nổi cái khổ đau của người chinh phụ. Nàng vẫn tiếp tục cô đơn và buồn tẻ bởi nàng đang đứng ngóng trông chồng mà chồng đâu chẳng thấy chỉ thấy toàn những cảnh vật thiên nhiên của đất trời hiện ra không còn dấu vết gì của người thương.

Núi cao chi lắm núi ơi

Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Nàng càng buồn càng ngóng trông thì người thương càng xa mãi, càng chờ thì càng xa:

Ngày ngày em đứng em trông

Trông non non ngất, trông sông sông dài

Trông mây, mây kéo ngang trời

Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa.

Nàng cứ chờ đợi, đến từng tháng ngày trôi qua trong sự nhớ thương chồng chất. Phải chăng “Người đàn bà chờ đợi người đàn ông, nhưng chờ đợi như con nhện giăng tớ” như Rochester đã nói. Người chinh phụ cứ trông ngóng chồng mình cho đến bao giờ đây? Chẳng lẽ trông ngóng chồng cho đến lúc phải hóa đá “Vọng phu” chăng?

Tác giả phân tích tâm trạng của người chinh phụ thật là xuất sắc. Phải chăng tác giả đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên có kết cấu hết sức hài hòa với cổ điển: đường nét màu sắc, âm thanh rất linh hoạt được sáng tạo theo lối bức tranh thủy mặc chấm phá của người xưa nên rất gợi. Nhưng mục đích không phải là tả cảnh mà tạo nên một bức tranh tâm trạng của người chinh phụ ngồi ngắm cảnh trời, suy tư mơ tưởng đến chồng giống như người chinh phụ trong những câu thơ Đường:

Tương tư nhất dạ mai hoa khởi

Nhất kiến song tiền nghi thị quân

Và:

Khuê xuân thiếu phụ bất như sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến bạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu

Đây là bài thơ phác họa tâm trạng của người con gái phải xa chồng biền biệt, ngày tháng chờ đợi mỏi mòn trong lòng và cô đã thấy được mùa xuân phơi phới bên ngoài mà nàng thì vẫn cứ đợi chờ.

Phải chăng câu nói của Honoré de Balzac là hoàn toàn đúng:

“Rung cảm, yêu, chịu đau khổ, hi sinh - những chữ này mãi mãi dệt nên trang đời của người phụ nữ”.

Qua đoạn trích, ta thấy Chinh phụ ngâm là một tác phẩm chống chiến tranh trong quan niệm của người sáng tác cũng như người dịch thì chiến tranh đối với người ra đi chinh chiến là chết chóc và đốì với người ở lại là sự cô đơn sầu muộn, lo âu, sợ hãi. Do đó, chiến tranh không thể nào phù hợp con người mà nó đôi lập toàn bộ cuộc sống con người. Mặt khác, tác phẩm còn nói lên cái khát khao cháy bỏng của con người về cuộc sống, hòa bình và mong muốn được hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ tình yêu, không phải mòn mỏi chờ đợi để tàn phai đi lứa tuổi thanh xuân của mình một cách vô lí như Xavier Forneret đã nói:

“Người con gái là một đóa hoa hồng mà năm tháng tỉa dần từng cánh".

Leave a Reply