Phân tích đoạn thơ sau trong bài Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: Bên kia sông Đuống... Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

I. Mở bài

Trong dòng cảm xúc của Hoàng cầm về Bên kia sông Đuống, người mẹ là vùng nhớ thương, đau đáu nhất:

Bên kia sông Đuống

...

Đường trơn mưa lạnh mái đầu hạc phơ.

Theo lời kể của chính tác giả, thì sau khi nghe kể về tình hình quê hương ở vùng bị địch chiếm đóng, đêm ấy, ông trằn trọc, vật vã mãi: “Trong người tôi lúc bấy giờ thật y hệt một cuốn phim của một người đạo diễn rối loạn tâm thần, các hình bóng quấn lộn vào nhau, các âm thanh màu sắc chen lèn lấn rối bốn bề, và trên bức vách, các hình thù ngả nghiêng theo ánh đèn dầu sơ lắt lay. Một lúc lâu thỉ những hình ảnh rõ nét hiện ỉên trên bức vách, cứ như quay tròn nhường chỗ cho nhau. Quanh khuôn mặt dầu dãi của mẹ tôi, các bộ mặt khác như đậu chênh vênh vào đấy...” (Hoàng Cầm, Thơ văn và cuộc đời)

Sau này, nhìn lại đời thơ và đời mình, nhà thơ Hoàng cầm còn viết: “Nói đến quê hương, phải bắt dầu bằng người mẹ. Mẹ là hiện thân trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương”. Vì thế, mỗi dòng, mỗi chữ thơ của Hoàng Cầm khi viết về người mẹ như chạm khắc vào thời gian để đến nay vẫn còn biết bao xúc động đối với người đọc.

Có con cò trắng bay vùn vụt

II. Phân tích

1. Năm câu đầu

- Từ nơi xa xôi, người con hướng về quê hương bên kia sông Đuống, nơi có người mẹ nghèo khổ:

Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm.

Đó là hình ảnh về người mẹ tảo tần, vất vả, đúng là người mẹ quê Việt Nam ngày xưa. Chỉ có 4 câu thơ nhưng hình ảnh mẹ lại rất gợi nhớ hàng loạt hình dung từ: già nua, còm cõi, hàng rong, cau khô, hoen sương sớm. Không nói rõ nhưng người đọc vẫn biết sự lam lũ của mẹ. Đặc biệt, câu thơ Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của người con đối với nỗi cực nhọc của mẹ. Bao nhiêu sương sớm làm hoen những thếp giấy là bấy nhiêu sương gió thấm đẫm vào người mẹ. Những từ chỉ số lượng: đám, mấy, vài càng cho thấy gánh hàng ít ỏi và sự vất vả kiếm sống của bà mẹ quê.

2. Sáu câu tiếp theo

- Cái vốn liếng ít ỏi ấy dù đủ để đau lòng người rồi, nhưng dẫu sao đó cũng là những ngày thanh bình. Đỉnh điểm của hoàn cảnh là khi lũ giặc tàn bạo xuất hiện:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giày đinh đạp gãy quán gày teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo.

Từ chợt diễn tả sự đột ngột, bất ngờ. Quân giặc đến thật bất ngờ, nhanh chóng gây nỗi hoảng hốt cho người dân nghèo. Câu thơ đồng thời diễn tả sự thảng thốt của chính tác giả.

- Kẻ thù không được tả nhiều, chỉ với ba chi tiết, nhưng đã lột tả được bản chất tàn ác của chúng: mắt xanh trừng trợn, giày đinh đạp gãy quán gầy teo, xì xồ cướp bóc. Nhà thơ gọi giặc Pháp theo cách dân gian, của người dân quê: lũ quỷ. Chúng không phải là con người nữa. Giặc đến đồng nghĩa với sự chết chóc, ảm đạm

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mua đông.

Câu thơ chuyển sang thể lục bát như để diễn tả nỗi đau xót xa đến nghẹn ngào, khôn cùng của tác giả. Đôi mắt nhà thơ như nương theo ánh nắng chiều trong nỗi nhớ về quê hương xa xăm. Cảnh ở đây vẫn là bức tranh làng quê quen thuộc với cây đa, quán nước, những vắng lặng, buồn thảm. Trước mắt là cảnh tượng tan hoang khi giặc đến. Sự vắng lặng đến kinh hoàng bởi người ta cảm nhận được từng chiếc lá đa đang bay lác đác dưới ánh nắng chiều. Trên cái nền ấy là những vết máu loang trông ghê sợ. Còn đâu con sông Đuống lấp lánh trôi đi, còn đâu bờ cát trắng phẳng lì, cùng những hội hè đình đám tưng bừng rộn rã?

- Nếu như ở các câu thơ trên, nhà thơ sử dụng nhiều hình dung từ và những từ chỉ số lượng để diễn tả nỗi nghèo khổ của bà mẹ quê, thì ở đây cũng với những loại từ ấy nhưng hàm ý khác hẳn, nhất là khi chúng được đặt trong thế đối lập. Chẳng hạn: Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo là sự đối lập một đằng là sức mạnh cường bạo với sự yếu đuối, không có gì chống đỡ. Hoặc Xỉ xồ cướp bóc diễn tả hành động ngang ngược, trái với lẽ thường. Thông thường, vài ba không phải là nhiều nhưng vài ba vết máu hiện lên trên cảnh hoang tàn của phiên chợ nghèo đang vắng lặng thì có sức ám ảnh tâm trí con người rất lớn.

3. Bảy câu cuối

- Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người mẹ yếu ớt và cô đơn:

Chưa bán được một đồng

Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ.

Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc.

- Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh hàng rong trở về khi chưa bán được một đồng. Xung quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm: Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút.

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

- Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò:

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu.

Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần khuya sớm:

Con cò đi đón cơn mưa

Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.

Đó càng không phải là con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình:

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng.

Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vệ hoảng hốt, sợ hãi:

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu.

Đến con cò nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía, nương dâu, ngô khoai biêng biếc giờ không còn là đất sống của nó nữa.

- Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê:

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ.

Nỗi khổ vật chất (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu). Nhịp thơ lục bát 2/2 gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiềụ ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.

III. Kết bài

Mười tám câu thơ với hình ảnh trung tâm là người mẹ, được đặt trong bối cảnh bên kia sông Đuống, lại trải dài trong một ngày không yên tĩnh. Đó là thời gian của chiến tranh. Lẽ thường, khi chiến tranh xảy ra, em thơ và người mẹ là những người đáng thương nhất. Hình ảnh người mẹ vừa thể hiện một mặt đáng nói nhất của chiến tranh, vừa chất chứa biết bao tình cảm của người viết.

Hình ảnh bà mẹ trong đoạn thơ trên có thể là người mẹ ruột của tác giả, nhưng cũng là hình ảnh của biết bao người mẹ trong chiến tranh. Khái quát hơn, đây còn là hình ảnh đất nước Việt Nam trong thời kì cháy bỏng đau thương và căm hờn. Bởi vậy, đến nay, những dòng thơ ấy gây xúc động sâu sắc cho người đọc.

Leave a Reply