Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc ... Bữa xôi đầu còn tỏa mùi hương

Gợi ý viết bài

Đoạn thơ gồm chín khổ, nằm ở phần hai của bài thơ. Các khổ thơ này thể hiện khát vọng về với Tây Bắc, nơi có cuộc kháng chiến anh hùng, về với nhân dân đậm đà tình nghĩa. Có thể phân tích hai khổ đầu (cảm xúc chung của nhà thơ khi nghĩ về Tây Bắc) và bảy khổ còn lại (cảm xúc, suy nghĩ của tác giả khi nhớ đến những kỉ niệm cụ thể về Tây Bắc).

I. Hai khổ thơ đầu

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc

...

Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.

Nhớ về Tây Bắc, nhắc đến Tây Bắc, cảm xúc đầu tiên của Chế Lan Viên là nghĩ đến một vùng đất thiêng liêng của Tổ quốc, nơi có biết bao kì tích anh hùng. Đây cũng là suy nghĩ của nhiều nhà thơ đương thời, đặc biệt là Tố Hữu trong bài thơ Việt Bắc ra đời ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc. Song, với Chế Lan Viên, khi đã có một khoảng lùi nhất định về thời gian (6 năm), nhà thơ nhấn mạnh đến sự hi sinh to lớn của nhân dân ở Tây Bắc:

Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất.

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Thông thường, người ta hay viết “máu đào thấm đất”. Chế Lan Viên, một nhà thơ suy tưởng, viết giàu tính biểu trưng hơn: máu rỏ tâm hồn ta thấm đất. Câu thơ trở thành một lời nhắc nhở đến sự hi sinh to lớn ấy, máu thấm đất, nhưng máu cũng đã thấm cả hồn người, nhất là với những ai đang mang bao ân tình sâu nặng với Tây Bắc.

Vì Tây Bắc là xứ thiêng liêng, núi rùng anh hùng, là nơi máu đỏ tâm hồn ta thấm đất, nên Tây Bắc còn là nơi bắt đầu, thắp sáng ngọn lửa, nơi soi đường cho con người. Tây Bắc không chỉ là quá khứ. Tây Bắc còn là nơi để con người soi mình và đi tới. Do đó, lên Tây Bắc là về với cội nguồn, về với dân tộc và nhân dân.

II. Các khổ thơ tiếp

Sau những suy ngẫm chung, khái quát về Tây Bắc, nhà thơ trở về với vùng đất xưa, dù có thể chỉ là trong tâm tưởng:

Con gặp lại nhân dân như nai về xuôi cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Đây là cuộc trở về của tình cảm, trở về với trái tim được nhà thơ diễn tả bằng một loạt các hình ảnh cụ thân thương: nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa, trẻ thơ đói lòng gặp sữa. Những hình ảnh cụ thể ấy nhằm diễn tả một suy tưởng lớn: trở về với nhân dân là trở về với cội nguồn, trở về để có được niềm vui, hạnh phúc.

Sáu khổ thơ liên tiếp được Chế Lan Viên dùng để hồi tưởng về những con người, cảnh vật Tây Bắc. Các hình ảnh rất cụ thể: người anh du kích, em bé liên lạc, người mẹ (mế), người em... Ớ mỗi con người, khi nhớ đến, nhà thơ luôn gắn với những kỉ niệm của riêng mình. Kỉ niệm nào cũng thiết tha, sâu nặng tình nghĩa: người anh du kích trước khi hi sinh đã cởi áo lại cho con; thằng em Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ, người mẹ Năm con đau mế thức một mùa dài. Nghĩa tình ấy mỗi khi nhắc nhớ lòng ai không khỏi trào dâng bao cảm xúc, làm sao có thể quên được. Mà không phải chỉ có kỉ niệm với ba con người cụ thể ấy. Từng tấc đất, từng cánh rừng Tây Bắc, nơi đâu không là đất thơ? Nhà thơ nâng lên thành một hình tượng biểu trưng hơn:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn!

Khổ thơ, đặc biệt là hai câu cuối từ lâu đã thành một câu châm ngôn, một triết lí mới. Đất là đất, nhưng đất cũng là tâm hồn khi nơi đó mãi là cõi nhớ, là ngọn nguồn của tình yêu, sự sống của con người!

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Hai khổ thơ còn lại tuy tiếp tục mạch hồi tưởng và suy tư về Tây Bắc, với những con người cự thể nhưng giọng thơ chợt như chùng xuống. Cũng nhớ về một con người, nhưng nhà thơ dành đến tám câu thơ:

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.

Phải chăng vì đây là nỗi nhớ của tình yêu? Hình ảnh, màu sắc cũng trở nên lung linh, mới lạ hơn. Khổ thơ trên là những hình ảnh cụ thể nhưng lại giấu tính tượng trưng: cánh kiến hoa vàng, chim rừng lông trở biếc... Các hình ảnh ấy lại dẫn đến một khái quát mới:

Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn. Nhưng quê hương cũng là nơi con người thực sự tìm thấy tình yêu, nguồn hạnh phúc!

Khổ thơ cuối lại trở về với những hình ảnh dung dị, cụ thể theo đúng nghĩa của nó: một kỉ niệm ở cuối mùa chiến dịch. Song cách tạo tứ thơ lại ngược lại với khổ thơ trên. Nếu ở khổ thơ trên, từ những hình ảnh giàu tính tượng trưng, nhà thơ đưa đến một khái quát mới, thì ở khổ thơ này lại từ những hình ảnh cụ thể, có thật đưa đến một nhận xét:

Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.

Song thực ra đây là một cách khái quát mới: kỉ niệm đẹp còn sống mãi trong lòng người cho đến bây giờ.

Phải thấy rằng Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên là bài thơ mang đậm chất “thời sự” mà đoạn thơ trên thể hiện khá rõ. Tuy nhiên, chất “thời sự” lại không làm cho bài thơ trở nên khô khan, nặng nề thuyết giáo. Trái lại, chuyện “thời sự” khiến người ta xúc động và những triết lí của nhà thơ lại giàu thuyết phục. Dĩ nhiên, thành công đó có phần do bài thơ là sáng tác của một cây bút già dặn, tài năng, nhưng trước hết và lớn cả là do tâm hồn, tình cảm rất chân thành và sâu nặng của chính nhà thơ đốì với Tây Bắc, đốì với nhân dân và đất nước.

Leave a Reply