Văn nghị luận: Thuế máu (Trích "Bản án chế độ thực dân Pháp")

I. Giới thiệu một xuất xứ tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" và bài "Thuế máu"

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động tại Pa-ri, thủ đô nước Pháp. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" của Người ra đời năm 1925 bằng tiếng Pháp.

"Bản án chế độ thực dân Pháp" đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt của bọn thực dân được che đậy bằng những mĩ tự như: "khai hóa", "văn minh", "công lí", v.v... Thực chất chúng đã áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy; đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn vô cùng dã man. Tác phẩm chính luận này có giá trị lớn, đóng góp về nhiều mặt: chính trị, sử học, văn học.

"Bản án chế độ thực dân Pháp" gồm có 12 chương, và phần phụ lục "Gửi thanh niên Việt Nam". "Thuế máu" là một phần của chương I.

Bản án chế độ thực dân Pháp

II. Hình ảnh tên thực dân quỷ quyệt, ghê tởm bị lột mặt nạ trong bài "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc

"Bản án chế độ thực dân Pháp" in lần đầu năm 1925, đến nay đã 80 năm trôi qua, nhưng nó vẫn làm ta xúc động về bao tội ác vô cùng dã man của bọn thực dân Pháp, về nỗi thống khổ của những người nô lệ da màu, những Nê-gơ-rô, những An-nam-mít.

Đặc biệt chương "Thuế máu" đã xây dựng hình tượng khái quát về tên thực dân quỷ quyệt, ghê tởm đầy ấn tượng.

Trong những thế kỉ trước, với tàu chiến và đại bác, thực dân Pháp đã xâm lược nhiều nước châu Phi, châu Á. Chúng đã mượn lá cờ "tự do, bình đẳng, bác ái" đi xâm lược nô dịch các dân tộc, bóc lột, áp bức dã man những người nô lệ "bản xứ". Nhưng chúng vẫn rêu rao là "khai hóa", là "bảo hộ"... Nguyễn Ái Quốc qua chương "Thuế máu" đã vạch trần, đã tố cáo, đã lên án tội ác tày trời của những công sứ, những tên toàn quyền bụng phệ!

Bọn thực dân Pháp rất xảo quyệt, tàn bạo và quắt quay. Dưới con mắt chúng, dân bản xứ chỉ là những tên da đen "bẩn thỉu", những tên "An-nam-mít" "bẩn thỉu", được chúng đối xử bằng dùi cui, bằng roi vọt. Chúng khinh miệt cho họ là "chỉ biết kéo xe tay" và "ăn đòn" của các quan cai trị! Thế nhưng, khi chiến tranh bùng nổ, để bắt được nhiều lính đi làm bia đỡ đạn chúng đã quay ngoắt 180o, dùng những lời lẽ ngọt ngào, dụ dỗ, bịp bợm. Những người nô lệ "bẩn thỉu" và khốn nạn ấy "lập tức" được bọn quan lại thực dân "biến thành" những "con yêu" của "nước mẹ", những "bạn hiền" của các ông Tây bà đầm, những "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Thật mỉa mai là "những chiến sĩ" vĩ đại ấy chưa bao giờ được hưởng một tí công lí và tự do. Đau thương cho họ là phải trả giá bằng nước mắt và xương máu. Phải "xa lìa" vợ con, phải "rời bỏ" mảnh ruộng đàn cừu. Phải làm mồi cho thủy lôi. Phải "bỏ xác" trên vùng Ban-căng hoang vu. Xương máu của những kẻ làm bia đỡ đạn thật vô lí vô nghĩa, hoặc "tưới những vòng nguyệt quế của cấp chì huy", hoặc "chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế". Những lính thợ phải "làm kiệt sức", "lại nhiễm phủi những luồng khí độc đỏ ối", phải "khạc ra từng miếng phổi". Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên những sự thật, những con số nói lên chiến tích đánh "Thuế máu" của thực dân Pháp: bảy mươi vạn người bản xứ được đi nộp "thuế máu", trong đó có 8 vạn người phải bỏ xác trên các bãi chiến trường châu Âu "không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình".

Chiến tranh kết thúc, khi đại bác "đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi", thì bọn cầm quyền thực dân "bỗng dưng im bặt như có phép lạ". Những kẻ đi nộp "thuế máu" có may mắn sống sót trở về, cả người Nê-gơ-rô lần người "An-nam-mít", lại trở lại "giống người bẩn thỉu". Họ bị bọn thực dân "lột hết" tất cả của cải của họ, từ cái đồng hồ, đến bộ quần áo mới. Họ bị đẩy xuống tàu, về nước, bị đối xử như súc vật,... Và bọn quan cai trị đã "đón chào" họ bằng một bài diễn văn "yêu nước": "Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!" Giọng lưỡi ấy đã thể hiện bản chất trơ tráo, đểu cáng của bọn thực dân Pháp.

Hình ảnh tên thực dân quỷ quyệt, ghê tởm đã bị tác giả vạch mặt và lén án qua cảnh bắt lính. Chúng đã từng bắt dân nô lệ Đông Đương mua rượu và thuốc phiện "theo lệnh quan trên", chúng từng "bóp nặn" họ bằng mọi thứ sưu thuế, tạp dịch. Chiến tranh bùng nổ, bọn thực dân đã "tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương". Hàng vạn người "bị bắt đều bị nhốt vào trại lính". Để có nhiều "vật liệu biết nói", các vị "chúa tỉnh" - những viên công sứ ở Đông Dương ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền phải tìm mọi cách "xoay xở" để "trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định" được vinh hạnh đi nộp "thuế máu". Kẻ nghèo khổ bị bắt làm bia đỡ đạn thì cam tâm "chịu chết", còn con cái nhà giàu thì "đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra".

Để "đền đáp" công ơn các thương binh người Pháp, vợ của tử sĩ người Pháp, bọn thực dân đã "ưu đãi", cấp môn bài bán thuốc phiện cho họ. Nguyễn Ái Quốc đã khinh bỉ và căm thù lên án chính quyền thực dân "đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại". Món quà đó là "món quà nhơ nhớp". Bọn cá mập thực dân "không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi", phải nghiêm khắc lên án!

Bằng nghệ thuật tương phản, hoặc nhắc lại giọng lưỡi và thủ đoạn của bọn quan lại thực dân, tác giả đã dựng nên hình tượng khái quát về tên thực dân Pháp rất xảo quyệt, bịp bợm và trơ tráo trong việc đánh "thuế máu", trong việc đầu độc nhân dân Đông Dương bằng thuốc phiện. Qua đó, ta càng thấy rõ "Bản án chế độ thực dân Pháp" của Nguyễn Ái Quốc là một tác phẩm chính luận giàu tính chất tố cáo và luận chiến có giá trị thức tỉnh đặc sắc.

Thuế máu

III. Phân tích mục "Chiến tranh và người dân bản xứ" trong bài "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc, và nêu cảm nghĩ của em

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), Nguyễn Ái Quốc sống và hoạt động tại Pháp. Người từng viết truyện kí, viết phóng sự... bằng tiếng Pháp đăng trên báo "Người cùng khổ", báo "Nhân đạo",...

Năm 1925, tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản tại Pa-ri. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, đau thương của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới.

Đoạn trích "Thuế máu" rút trong Chương I "Bản án chế độ thực dân Pháp" với nhan đề "Thuế máu" rất độc đáo, có giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân một cách đanh thép. Các tiêu đề bổ sung như: 1. Chiến tranh và "người bản xứ"; 2. Chế độ lính tlình nguyện; 3. Kết quả của sự hi sinh - đã làm nổi rõ cái thứ "Thuế máu" vô cùng kì lạ và vô nhân đạo. Những người An-nam-mít, những nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng dã man. Ta hãy tìm hiểu và phân tích mục "Chiến tranh và người bản xứ".

Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên "bản xứ" chỉ là "những tên da đen bẩn thỉu", "những tên An-nam-mít bẩn thỉu" chỉ biết làm cu-li "kéo xe tay" và
"ăn đòn" của các quan cai trị da trắng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thực dân đã xảo quyệt dùng mọi thủ đoạn lừa mị, bịp bợm biến những kẻ khốn nạn ấy thành "con yêu", "bạn hiền" của các quan cai trị "phụ mẩu nhân hậu", của các quan "toàn quyền ì ớn, toàn quyền bé", họ được phong cho các danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do". Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản để vạch trần giọng lưỡi, thủ đoạn bịp bợm quắt quay của bọn thực dân trong việc bắt nô lệ "bản xứ" làm bia đỡ đạn, một cách đánh "thuếmáu" vó cùng xảo quyệt. Các từ ngữ như "chiến tranh vui tươi", "lập tức họ biến thành", "đùng một cái", "được phong cho cái danh hiệu tối cao"- đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu cay, mỉa mai.

Nguyễn Ái Quốc đã gợi lên những mất mát đau thương của những thanh niên bản xứ bị bắt đi làm bia đỡ đạn. Họ phải "xa lìa" vợ con phải "rời bỏ" quê hương, mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi "phơi thây" trên các bãi chiến trường châu Âu. Có biết bao cảnh chết chóc thương tâm. Chết vì thủy lôi , "dược xuống tận đáy biển để bảo vệ Tổ quốc của các loài quỷ quái". Bị "đem nướng", đã "bỏ xác" tại các vùng hoang vu Ban-căng, để "lúc chết cồn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ". Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa, hoặc "anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát" trên bờ sông Mác-nơ, trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, hoặc "lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy", hoặc "lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế". Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái "thuế máu" của bọn thực dân.

Những người lính thợ không bị bỏ xác trên các bãi chiến trường thì lại bị đầu độc, phải lao động khổ sai, "làm kiệt sức" trong các xưởng thuốc súng ghê tởm "nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối". Những kẻ khốn khổ ấy "đã khạc ra từng miếng phổi" chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy! Đó là một sự "trả giá" rùng rợn của "dân bản xứ" đối với chiến tranh!

Những con số dưới ngòi bút Nguyền Ái Quốc thật sự "biết nói": Bảy mươi vạn người bản xứ bị đánh thuế máu, và trong số ấy có tám vạn người đã chết đau đớn, vô nghĩa "không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa".

Thuế máu thực dân

Đọc mục "Chiến tranh và người dân bản xứ" trong chương "Thuế máu", ta vô cùng xúc động trước số phận đau thương của những "người bản xứ" những nô lệ da đen da vàng đã phải nộp "thuế máu" cho bọn thực dân Pháp trong đại chiến thế giới lần thứ nhất.

Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng sắc sảo các thú pháp nghệ thuật như tương phản đối lập kết hợp miêu tả với bình luận, nêu lên những con số, những sự thực, đặc biệt tạo nên những lời văn, giọng văn chua cay để vạch trần, để lên án, để châm biếm loại "thu ếmáu", một trong những hình thức bóc lột dã man nhất của thực dân Pháp.

Trong suốt 80 nãm thống trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, bóc lột dân ta đến tận xương tủy. Sưu thuế dã man đã làm tan nát, điêu linh bao gia đình. Ta quên sao được hình ảnh anh Dậu "bị trói như chó để giết thịt", chú Hợi đã chết từ năm ngoái vẫn "không trốn dược nợ nhà nước"; chị Dậu phải bán con, bán chó để nộp sưu cho chồng. Nhưng khi đọc chương "Thuế máu" trong "Bản án chế độ thực dân Pháp", ta vô cùng kinh khủng về bộ mặt ghê tởm của bọn thực dân Pháp. "Thuế máu" là một trong những tội ác tày trời của chúng. "Thuế máu" đã bóc trần luận điệu "khai hóa", "bảo hộ" của thực dân Pháp.

Leave a Reply