Nghị luận văn học - Ẩn số một bài ca

Không chỉ đi tìm cái đẹp, thi sĩ còn khao khát gửi cái đẹp đến cho đời. Và cái đẹp thì ít khi dễ tính. Vì thế, nhiều lúc thơ thật khó hiểu. Về phía người đọc, lại hay chủ quan là đã hiểu rồi, nhất là bài thơ đã có quá nhiều độc giả. Lắm khi người đọc đem cái - đã - có để hiểu cái - chưa - có. Từ đó, thay vì nỗ lực khai quật một ẩn số, ta lại đem một đáp số có sẵn để giải mã một văn bản mà mỗi lần đọc lại một - tinh - khôi. Bài ca dao quen thuộc càng là trường hợp như thế:

Con cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ồng ơi! Ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào ông hãy xảo măng

Có xáo thì xảo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

Thật dễ khiến ta hiểu rằng đó là hình ảnh người phụ nữ tảo tần, chịu thương chịu khó. Yêu chồng thương con, con cò ấy phải vất vả cả ban đêm, thời gian mà con cò tạm thời ở yên trong mái gia đình. Rồi giữa mịt mù của bóng đêm quái ác, con cò đã lâm nạn.

Con cò mà đi ăn đêm

Cũng lạ! Nếu phải tảo tần vì chồng con rồi tử nạn thì cái chết ấy có thể xem như một hành vi “tựu nghĩa”, con cái về sau sẽ ngẩng cao đầu. Cớ chi cò mẹ lại sợ cò con đau lòng? Không phải nỗi đau mất mẹ mà ở đây là danh dự, là phẩm tiết, có thể để lại tai tiếng cho gia đình, làm tổn thương cả dòng tộc - và trong thời gian là “di chứng tật nguyền” cho những thế hệ mai sau... Rồi lại nữa, nếu vì chồng con mà cò mất mạng thì trước phút chết, tại sao cò chỉ nghĩ đến đàn con mà không mảy may nghĩ đến chồng? Tình mẫu tử có đấy, còn đạo phu phụ ở đâu? Không có một tín hiệu nào trong văn bản thông báo con cò này là con cò quả phụ.

Đó đây nghe chừng không ổn vì bài ca thiếu nhất khí?

Con cò mà đi ăn đêm

Con cò nhỏ bé, bóng đêm mênh mang. Màu lông trắng bạch của cò với màu đen đặc quánh của đêm tạo nên cái đối lập đến tàn nhẫn. Người đọc cảm động và lo sợ cho con cò. Quy luật liên tưởng làm “màn hình vỏ não” chớp nháy liên tục:

Nửa đêm giờ tí canh ba...

Dặm khuya ngất lạnh mù khơi...

Con cò sợ ma chết lẫn ma sống...

Thêm nữa, dòng thơ sáu âm tiết toàn thanh bằng hiếm thấy ca dao. Cánh cò lướt nhẹ qua đêm lặng lẽ quá chăng, đôi chân gầy trên đường khuya lặng lẽ quá chăng mà dòng thơ tịnh êm đến thế? Đêm, im hơi đến rợn người... Đôi mắt cò không có khả năng quan sát trong bóng tối. Tính nghịch lí của vấn đề ngưng kết trong chữ “mà”!

Sự xuất hiện của từ “mà” đã ngầm nêu một tình huống có vấn đề, ngầm báo động một trường hợp khác thường. Vậy, cái không thể xảy ra đã xảy ra. Con cò đi đâu, làm gì trong đêm tối? Bí ẩn nằm ở chữ “ăn đêm”. Ngờ rằng việc ăn đêm của cò không minh bạch cho lắm! “Đêm tối là thời gian của lũ cướp và thi nhân" (Baudelaire). Cò đi ăn trộm về nuôi chồng con đang đói khổ chăng? Không thể! Cái nghề một đêm bằng ba năm làm thường chỉ cho... đấng mày râu. Không là kẻ trộm, cò có thể đi ăn cắp vặt. Cứ cho là như thế, thì tại sao trước lúc bị xáo măng, cò lại không nghĩ đến chồng, như đã nói ở trên? Rõ là một ẩn số “bí hiểm”!

Bài lục bát có sáu dòng mà đã có bốn dòng biến thể:

Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm...

Ông ơi, ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào...

Vần lục bát không bình thường bởi có chuyện không bình thường? Cành mềm kia sẽ là cạm bẫy, hay là một đối tượng nào đó mà cò vô phúc “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”? Chợt nhớ bài học được truyền tụng Chim khôn tỉm cành mà đậu...

Ngơ ngác, thật thà - cò lộn cổ xuống ao. Lại thêm bóng tối tàn nhẫn nên mắt không còn nhìn xa trông rộng. Cò không đủ khôn lanh. Có mấy ai thật thà, yếu đuối mà khôn lanh đâu! Bị bắt quả tang, cò không còn đường chạy trốn, đành van xin:

Ông ơi, ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Cò vừa kêu cứu vừa kêu oan. Lại gặp “ông”, người mà trước đây từng vu oan, giáng họa cho cò:

Cái cò, cái vạc, cái nông

Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?

- Không không tôi đứng trên bờ

Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi!

Có thể là ông cường hào địa chủ quen thói đổ vạ cho người khác để kiếm ăn. Vô phúc cho ai hiền lành thấp cổ bé miệng mà bị ông vớ được... Chuyện giẫm lúa năm xưa có lẽ cuối cùng cũng qua được, còn chuyện ăn đèm của cò lần này thì không còn đường chạy chối. “Ong” cũng có thể là một anh trương tuần làm nhiệm vụ gác đêm ở đầu thôn cuối xóm, bắt gặp một chuyện động trời! “Ông” cũng có thể là một nhân vật phiếm chỉ, đại biểu cho dư luận nghiệt ngã, lạnh lùng. Có dư luận nào lại buông tha cho dâm phụ!

Cho dù “ông” là ai đi nữa cũng chẳng đứng về phía con cò. Đi trước thời đại như Hồ Xuân Hương, lá chắn cho người phụ nữ, cũng mới chiêu tuyết cho ai đó “không chồng mà chửa”, chưa thấy một lần bà đứng về phía người đàn bà ngoại tình! Thế là con cò bị người ta “thịt” mất. Dư luận tha hồ xẻ thịt lột da người đàn bà ăn đèm bất chính. Nhưng sao người đàn bà lại làm chuyện tày trời thế? Nếu soi bằng nguyên lí nhân quả của luận lí học thì không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân vì sao nó xảy ra như thế. Đã nhiều lần người đàn bà than thở về người chồng không “đáng tấm chồng”.

Chồng em nó chẳng ra gì...

Bao lần báo động, làng nước vẫn im. Mười hai bến nước, con đò đã tấp vào bến đục và cứ thế triệu triệu con cò vẫn cứ ngàn năm câm nín. Con cò ăn đêm là con cò toan phá bẻ xiềng gông, con cò “nổi loạn”, con cò trả thù số phận. Chẳng cần chồng hiểu vì chồng chẳng ra chồng. Cò chỉ sợ cho con. Cò con lớn lên cứ bị dư luận sỉ vả mà tủi nhục với làng nước, không ngóc đầu lên được. Cò mong được xáo nưóc trong là vì thế! Nhưng ở một nền văn minh lúa nước với hệ tư tưởng phong kiến sắc lạnh bủa vây thì nỗi niềm và ước mong của cò vẫn cứ ngậm ngùi tan trong bóng đêm mịt mù ngất lạnh. Cò con đâu thấu hiểu cho cò mẹ, người mẹ từng cúi đầu nhẫn nhục nuôi con, lòng lúc nào cũng sáng trong như nước trong nguồn chảy ra. Cò con cứ hiểu cò mẹ qua “mạng lưới viễn thông vô tuyến tự phát phủ sóng” khắp làng trên xóm dưới mà thôi. Cò mẹ là nạn nhân hay thủ phạm? vẫn còn đó những chuyện muôn đời không nói năng, uẩn khúc con cò là một ẩn số - một ẩn số có khả năng đa nghiệm!

Leave a Reply