Phân tích đoạn văn Hai tâm trạng rút trong tác phẩm Chiến tranh và Hòa bình của tác giả Lép Tôn - xtôi
Hai tâm trạng trích trong tập II bộ tiểu thuyết “Chiến tranh và Hòa bình” của đại văn hào Lép Tôn-xtôi. Thời gian được nói đến trong đoạn văn là vào mùa xuân và mùa hè năm 1809, hơn ba năm sau trận đánh đẫm máu Ô-xéc-lít diễn ra, liên quân Áo - Nga bị Na-pô-lê-ông đánh cho đại bại. An-đrây bị thương nặng, ước mơ dùng tài thao lược và lòng dũng cảm của mình chuyển thế trận bị tan vỡ, giấc mộng Tulông vỡ tan thành. Trở về nhà đúng lúc vợ chàng - nữ công tước Li-da - sinh được đứa con trai rồi nàng chết. Con đường công danh..., bi kịch gia đình... đẩy An-đrây vào một cuộc khủng hoảng tinh thần ghê gớm. Từ đó, chẳng thiết gì đến công danh, sự nghiệp, chàng ở miết tại nông thôn, chăm lo công việc điền trang và cậu con trai bé bỏng, mồ côi mẹ.
Mùa xuân năm 1809, An-đrây đi về Ri-a-da thăm các điền trang của vợ chàng để lại cho con trai. Lúc đi qua một khu rừng bạch dương, An-đrây chợt thấy một cây sồi bên đường. Chàng quý tộc nhìn khu rừng rồi lặng ngắm cây sồi già, xúc động, tâm tình với nó. Giữa những cây bạch dương mọc thành khóm rừng, mùa xuân đã làm cho chúng đổi thay: “đám bạch dương tươi cười”, khắp cánh rừng “dưới gốc cây sồi cũng có hoa, có cỏ”. Chàng vô cùng ngạc nhiên trước hình ảnh một cây sồi già, nó to và cao “gấp đôi” mấy cây bạch dương, già “gấp mười lần” những cây bạch dương, gốc nó rất to “hai người ôm không xuể”. Như một kẻ tàn tạ, tang thương, cây sồi già có cành bị gẫy, vỏ thì “nứt nẻ... sứt sẹo”, cánh tay thì “to sù sì”, ngón tay thì “quều quào”... như “một con quái vật già nua, cau có”. Giữa rừng bạch dương, “chỉ có cây sồi là không chịu khuất phục cái phép nhiệm màu của mùa xuân...”. Xe đã đi qua, công tước An-đrây còn ngoái cổ nhìn lại cây sồi, nó vẫn “cau có, lầm lì, què quặt và kiên gan đứng im giữa đám hoa cỏ ấy”. Cây sồi già khác nào một “linh hồn chết”. Nhựa sống phải chãng đã cạn kiệt rồi đang đứng “trơ gan cùng tuế nguyệt” và “cau mặt với tang thương”. Như ta đã biết, An-đrây đang đứng trước bao nỗi buồn đau cuộc đời nên chàng quý tộc này đã nhìn, đã cảm nhận hình ảnh cây sồi qua tâm trạng mệt mỏi của mình? Cây sồi được nhân hóa. Cảnh vật thấm đượm màu sắc trữ tình buồn thương.
Thật là kì diệu, An-đrây như đang xúc động lắng nghe tiếng nói thầm thì của cây sồi già: “Mùa xuân, tình yêu, hạnh phúc!... vẫn chỉ là một sự dối trá mà thôi! Làm gì có mùa xuân, có ánh nắng, có hạnh phúc?...”. Rồi như bằnh linh nghiệm, cây sồi chua chát phủ định và giễu cợt đồng loại: “và ta không tin vào những niềm hi vọng và những sự dối trá của các ngươi”. Với cây sồi già, khi mà nhựa sống đã cạn kiệt, mùa xuân đến, nó vẫn chưa “thức tỉnh” trước “phép nhiệm màu” của mùa xuân! Lắng nghe cây sồi tâm tình thổ lộ, An-đrây đồng điệu với nó và trầm ngâm: “Phải, cây sồi ấy nói phải, một ngàn lần phải”. Nỗi đau của vết thương lòng tưởng đã nguôi đi sau một thời gian nay lại “nhức nhối”, An-đrây tự an ủi mình: “Cuộc đời của chúng mình hết rồi”. Cây sồi già trở thành đồng điệu, đồng cảnh với chàng quý tộc trẻ, vì thế mà chàng cảm thấy lòng mình “buồn buồn dìu dịu” - An-đrây suy nghĩ lại cả cuộc đời của mình: “không nên mưu đồ một cái gì nữa hết”., phải “sống nốt cho hết cuộc đời của mình” trong sự bình yên “không làm điều xấu, không ưu tư, không ước muôn gì nữa”. An-đrây không chỉ phủ định những ước mơ, khát vọng cao đẹp một thời mà còn phủ định cả cái xã hội quý tộc khi đó nữa. Chàng cảm thấy an bài theo số phận. Có thể nói hình bóng cây sồi, ý nghĩ của cây sồi cũng là hình ảnh, ý nghĩ của An-đrây. Tác giả đã tả cây sồi, mượn cây sồi để tả cảnh ngụ tình, để làm nổi bật tâm trạng yếm thế, hoài nghi của chàng quý tộc đang trăn trở, đau buồn trong bi kịch gia đình và xã hội. Những nét vẽ của Tôn-xtôi về những biến thái tâm tình ấy của An-đrây rất tinh tế, đầy ấn tượng.
Ai đã từng đọc “Chiến tranh và Hòa bình” chắc sẽ nhớ mãi cảnh đêm trăng ở Ô-trát-nôi-ê và hình ảnh Na-ta-sa - con gái của lão bá tước Rô-xtốp. “Vầng trăng gần tròn, trên nền trời xuân trong sáng chỉ lác đác mấy vì sao”. Cảnh vật “Lắng lại như vầng trăng, như ánh trăng”. Còn người con gái thì “mắt đen, tóc đen, vóc người mảnh dẻ đến lạ lùng” cùng với câu hỏi: “Cô ta có chuyện gì mà vui thế nhỉ?” cứ bám riết lấy và làm cho tâm hồn chàng quý tộc trẻ An-đrây vô cùng xao xuyến. Sau đêm trăng ấy, An-đrây từ biệt lão bá tước Rô-xtốp ra về. Một buổi sáng đầu tháng sáu, An-đrây lại đi qua khu rừng bạch dương dạo đầu xuân. Một cảnh tượng hoàn toàn khác. Thông non rải rác đã trổ những “chồi non xanh mịn”. Rừng bạch dương “bóng cây rợp mát ... lá cây óng ánh dưới nắng”. Không gian rộn ràng tiếng lục lạc mơ hồ, cảnh vật nở hoa, tiếng họa mi “thánh thót khi xa khi gần”..
Cảnh vật xôn xao hay lòng chàng quý tộc trẻ góa vợ xôn xao? An-đrây tìm kiếm cây sồi già như tìm kiếm người bạn cố' tri. Chàng không ngờ nó đã “đổi mới hẳn”. “Lá non xanh tương đã đâm thẳng ra ngoài” lớp vỏ cứng già hàng thế kỉ. “Chòm lá xanh mơn mởn” như đang “say sưa, ngây ngất, khẽ đung đưa trong ánh nắng chiều”. Cây sồi già đã hồi xuân, đã bật dậy với sắc xuân và sức xuân kì lạ. Cây sồi như đang vũ hội với thông non, với bạch dương, với cỏ hoa và tiếng hót của họa mi thánh thót. Ngắm cây sồi, An-đrây “bỗng vô cớ có một cảm giác vui mừng, sảng khoái tưởng chừng như mỗi tế bào trong mình đã đổi mới, sông lại”. Những trang đời, những kí ứng vui, buồn ùa lên và sông dậy. Cảnh tượng chiến trường Ô-xéc-lít, hình ảnh Li-da trước khi tắt thở. Kỉ niệm gặp gỡ bá tước Pi-e trên bến đò, và... hình ảnh người con gái ấy, đêm trăng ấy ở Ô-trát-nôi-ê... cùng hiện lên trong tâm hồn chàng.
Thiên nhiên hữu tình, cây sồi hồi xuân tràn trề sức sống và người thiếu nữ Na-ta-sa kiều diễm, đêm trãng huyền diệu ở Ô-trát-nôi-ê... đã lay tỉnh, đã đem đến cho An-đrây một niềm vui mới, chan chứa yêu đời. Chàng cảm thấy bâng khuâng, nghĩ thầm: “Không, cuộc đời chưa chấm dứt ở tuổi 31”. Chàng tự an ủi và động viên mình: “...Sao cho cuộc sống của ta trôi qua không phải chỉ mình ta, ... sao cho cuộc đời ta phản chiếu lên tất cả mọi người, và mọi người cùng sống chung với ta”. Có thể nói, tâm hồn u ám bấy nay đã bị ánh trăng huyền diệu xua tan. Mọi cô đơn, sầu muộn bấy nay... chứa chất trong lòng chàng quý tộc trẻ đã bị xua tan.
Cảnh gặp lại cây sồi bên đường đã cho thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Lép Tôn-xtôi. Mùa hè năm 1809 là một mùa hè đẹp, đáng nhớ với An-đrây. Tình yêu chớm nở trong lòng chàng quý tộc trẻ. Con đường công danh và hạnh phúc lại mở ra. An-đrây lại ra trận vì một nước Nga vĩ đại. Và “người con gái đêm nào muôn bay lên trời” sẽ gắn bó với số' phận An-đrây như một “thiên mệnh”.
Tình yêu thiên nhiên, cảnh sắc Nga, ngòi bút điêu luyện trong việc miêu tả tâm lí và khám phái “biện chứng tâm hồn” của con người, cách thể hiện con người trong sự vận động đi lên, vượt qua sô' phận và hướng thiện - là bút pháp nghệ thuật, là tấm lòng nhân đạo cao đẹp của Tôn-xtôi. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong đoạn văn đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hai tâm trạng của nhân vật An-đrây.