“Tài năng cùng với vẻ đẹp tâm hồn cao quý đã giúp Nguyễn Trãi viết nên những bài thơ hay, độc đáo, đầy ý nghĩa cao đẹp”. Hãy phân tích bài thơ Bảo kính cảnh giới 43 - Cảnh tình mùa hè của Nguyễn Trãi để chứng minh ý kiến trên

YÊU CẦU

- Thể loại

Kiểu bài chứng minh văn học, cụ thể là chứng minh một nhận định về tác giả theo định hướng (bằng cách phân tích một bài thơ).

- Nội dung:

• Tài thơ.

• vẻ đẹp tâm hồn (Nguyễn Trãi qua bài thơ Cảnh tình mùa hè).

GỢl Ý

Thân bài có thể được triển khai theo yêu cầu về nội dung.

A. Tài thơ

1. Nguyễn Trãi đã cách luật bài tho': Tìm một kiểu dáng cho thơ, Nguyễn Trãi đã phá luật tạo ra nét độc đáo cho hình thức thơ, giúp cho cảm xúc trình bày thêm nổi bật.

- Nhịp thơ linh hoạt, không theo nhịp chẵn - lẻ phổ biến của thơ Đường luật.

- Hình thức lục ngôn thể của hai câu 1, 8 mới lạ ở số lời thơ.

bài thơ Bảo kính cảnh giới 43

2. Sử dụng ngôn ngữ giản dị, độc đáo, nhất là ở các từ mang giá trị biểu cảm cao, từ tượng hình, tượng thanh, các động từ gợi tả đã thể hiện sức sống của cảnh vật: “Hồn của vật” tỏa ra từ “hồn chữ”: đùn đùn, phun, lao xao, dắng dỏi...

3. Khám phá mới, cảm nhận tinh tế, lột tả “cái thần, cái hồn” của sự vật ở những góc nhìn bất ngờ nhất:

- Bức tranh thiên nhiên nổi bật hài hòa màu sắc, âm thanh: màu xanh của hòe, màu đỏ của thạch lựu...

- Bước đi của thời gian qua dấu hiệu của cây cối:

+ Đầu hè: cây hòe.

+ Giữa hè: cây lựu.

+ Cuối hè chớm thu: hoa sen.

Bức tranh cuộc sống dân dã thật hài hòa nhờ sự kết hợp hình ảnh trang nhã, quý phái (lầu tịch dương) và đời thường (lao xao chợ cá).

B. Vẻ đẹp tâm hồn

1. Nguyễn Trãi là nhà thi sĩ đắm say trước cảnh vật, rung cảm và phát hiện tinh tế trước cảnh vật thiên nhiên, cuộc sống.

2. Tâm sự u uẩn, kín đáo, buồn đau thời thế (sự rỗi rãi không bình thường ở câu 1).

3. Nguyễn Trãi có tư tưởng thân dân và khát vọng cao quý: Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dù trong hoàn cảnh nào ông cũng răn đời, dặn mình, sống vì tiêu chí cao đẹp ấy. Chính vì nét đẹp ấy mà hiện nay, bài thơ tuy còn một số từ cổ đã xa lạ với chúng ta, người đọc vẫn yêu quý, cảm thấy gần gũi vì tư tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi gởi gắm vào bài thơ.

BÀI LÀM

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một bầu không gian trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm Bảo kính cảnh giới chứa đựng những nét độc đáo, lấp ló niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là Cảnh tình mùa hè.

Câu đầu cho thấy Nguyễn Trãi đang sống rất thong thả, rảnh rỗi một cách bất thường. Bởi, nếu còn được tham gia vào việc triều chính thì không thể có cái an nhàn ấy. Bài thơ có khả năng được sáng tác vào khoảng 1438 đến 1439 lúc Nguyễn Trãi về Côn Sơn để lánh lũ nịnh thần đang lũng đoạn triều đình. Câu thơ như một tiếng nói tự bên trong: (Ừ, rảnh rỗi đến thế này rồi thì ta hóng mát mãi!).

Có thể nói 4 câu đầu miêu tả cảnh. Tác giả mở tâm hồn ra với thiên nhiên vào cuối hè trong lúc rỗi rảnh và “hóng mát”.

Bức tranh rất sinh động và đầy sức sống: - Cây hòe đang phát triển màu xanh lục của nó cứ “đùn đùn” mà lên, mà tỏa tán, mà trương rợp ra như một cái dù xanh đan bằng cành lá. Màu xanh cứ vậy mà sum sê, mà tỏa rộng.

Sách một hai phiên làm bầu bạn

Ở hiên nhà, những bông hoa thạch lựu nở hoa đỏ chói, màu lửa cứ phun ra làm chói rực rỡ, cái gam màu đỏ là màu nóng đối với cái gam màu xanh là màu lạnh càng làm cho cảnh vật tưng bừng hoạt náo như đua nhau mà khoe sự sống.

Những ngày cuối xuân đầu hè, Nguyễn Trãi cũng cảm nhận tinh tế: Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn.

Để tả mùa hè Nguyễn Du cũng viết:

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.

Hoa sen chắc đã thành gương sen cả nên đầm hồ không còn chút mùi thơm nào nữa.

Cảnh vật ở đây được đón nhận bằng nhiều giác quan (mắt, mũi, tai và cả ấn tượng nữa). Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì có sức nội năng có cái gì thôi thúc bên trong dường như không kềm lại được cứ “đùn đùn” “phun trương” ra tất cả. Cảnh vật được nhân hóa cho nên nó thiên về miêu tả trạng thái tinh thần của sự vật qua đây ta thấy được lòng yêu đời của tác giả thật mãnh liệt.

Cách đặt câu khiến ta nghĩ: Cái hiên nhà phun những bông hoa màu đỏ chứ không phải cây thạch lựu; cái hồ sen đã im ngừng mùi hương chứ không phải là bông sen. Cái nhìn như vậy nó tinh tế và mới lạ vui vẻ mặc dầu người đọc có thể hiểu màu đỏ và hương thơm ấy từ đâu.

Có lẽ nhà thơ đỡ quạnh hiu và chán nản với thực trạng là nhớ thiên nhiên xoa dịu niềm đau. Nhưng trong các âm thanh của thiên nhiên Nguyễn Trãi vẫn lọc được tiếng nói của cuộc đời.

“Lao xao chợ cá” dội lên từ một làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ" và cả tiếng ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lòng Nguyễn Trãi đang tấu nhạc? (Buổi chiều tiếng ve không kêu nhiều như trưa!)

Nghe thấy để chứng thực rằng dân đang sống giàu đủ yên vui, Nguyễn Trãi ước mơ cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Câu lục được cắt nhịp vững chãi kết tụ cảm xúc trong bài thì ra dù có “rỗi hóng mát” tác giả vẫn đau đáu một lí tưởng vì dân. Con người suốt đời mang mối tiên ưu, dành trọn đời mình để tự giúp dân vẫn luôn quan tâm tới no ấm cho dân:

Sách một hai phiên làm bầu bạn

Rượu năm ba chén đổi công danh

Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa?

Cầu một ngồi coi đời thái bình

(Tự thán - Bài 10)

Bài thơ này đã làm rõ niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Với thiên nhiên cây cỏ, ông yêu nó đắm say. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên, nhưng ức Trai chăm chắm “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng thân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán thán, đau sầu...

Leave a Reply